Nền kinh tế Việt Nam đã và đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Quan hệ kinh tế đối ngoại đặc biệt là hoạt động thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta trong các năm qua tăng liên tục và giảm dần tỷ lệ nhập siêu. Tuy nhiên xu thế hội nhập đặt ra cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần nhiều vốn hơn để thực hiện có hiêu quả các hợp đồng ngoại thương. Khả năng tài chính có hạn, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc đủ vốn để thu mua nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh quan hệ vay mượn và tài trợ của các ngân hàng (hay còn gọi là tín dụng). Tín dụng xuất khẩu ra đời là tất yếu khách quan gắn liền với quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước. Tín dụng xuất khẩu đáp ứng được nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, giúp các doanh nghiệp này tăng trưởng, hoạt động hiệu quả hơn. Nó còn đóng vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động ngoại thương, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng Phát triển Việt Nam là ngân hàng hoạt động trên tinh thần một Ngân hàng chính sách của Chính phủ, thực hiện chính sách đầu tư phát triền và chính sách xuất khẩu của Nhà nước. Sau thời gian thực tập tại Ngân hàng Phát triển, trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu, ảnh hưởng của tín dụng xuất khẩu tới các doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng để kinh doanh xuất nhập khẩu em đã chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu (nghiên cứu tại Ngân hàng Phát triên Việt Nam )” làm đề tài chuyên đề thực tập.
96 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đã và đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Quan hệ kinh tế đối ngoại đặc biệt là hoạt động thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta trong các năm qua tăng liên tục và giảm dần tỷ lệ nhập siêu. Tuy nhiên xu thế hội nhập đặt ra cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần nhiều vốn hơn để thực hiện có hiêu quả các hợp đồng ngoại thương. Khả năng tài chính có hạn, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc đủ vốn để thu mua nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh quan hệ vay mượn và tài trợ của các ngân hàng (hay còn gọi là tín dụng). Tín dụng xuất khẩu ra đời là tất yếu khách quan gắn liền với quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước. Tín dụng xuất khẩu đáp ứng được nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, giúp các doanh nghiệp này tăng trưởng, hoạt động hiệu quả hơn. Nó còn đóng vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động ngoại thương, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng Phát triển Việt Nam là ngân hàng hoạt động trên tinh thần một Ngân hàng chính sách của Chính phủ, thực hiện chính sách đầu tư phát triền và chính sách xuất khẩu của Nhà nước. Sau thời gian thực tập tại Ngân hàng Phát triển, trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu, ảnh hưởng của tín dụng xuất khẩu tới các doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng để kinh doanh xuất nhập khẩu em đã chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu (nghiên cứu tại Ngân hàng Phát triên Việt Nam )” làm đề tài chuyên đề thực tập.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam các năm gần đây
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng học thuyết kinh tế chính trị Mác – Lênin, các học thuyết kinh tế học hiện đại về ngân hàng, thương mại quốc tế, quán triệt tư tưởng và quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu
Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa tín dụng xuất khẩu với hoạt động xuất nhập khẩu (nghiên cứu tại Ngân hàng Phát triển)
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Phát triển nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
XUẤT KHẨU VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
1.1. Xuất nhập khẩu
1.1.1. Bản chất của thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế thường giữ vị trí trung tâm trong các hoạt động kinh tế quốc tế. Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước thông qua việc mua bán nhằm mục đích kinh tế và thu lợi nhuận; là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội, phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa người kinh doanh hàng hóa dịch vụ riêng biệt ở từng quốc gia. Thương mại quốc tế vừa được coi là một quá trình kinh tế, vừa được coi là một ngành kinh tế. Với tư cách là một quá trình kinh tế, thương mại quốc tế được hiểu là một quá trình bắt đầu từ khâu điều tra nghiên cứu thị trường cho đến khâu sản xuất kinh doanh, phân phối, lưu thông và tiêu dùng sản phẩm. Với tư cách là một ngành kinh tế, thương mại quốc tế là một lĩnh vực chuyên môn hóa có tổ chức, phân công và hợp tác, có cơ sở vật chất kỹ thuật, có lao động, vốn….
Cơ sở kinh tế cho thương mại quốc tế là sự phân công lao động,
hợp tác quốc tế. Lịch sử phát triển của mọi quốc gia độc lập cho thấy xu hướng tất yếu để tồn tại và phát triển thì quốc gia đó phải thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường hợp tác quốc tế. Phân công lao động, hợp tác quốc tế phát triển mạnh làm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển, là động lực chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đưa đến sự cần thiết phải có sự trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể kinh doanh. Thương mại quốc tế làm cho nền kinh tế thế giới như một chỉnh thể, nền kinh tế mỗi quốc gia như các bộ phận hợp thành có quan hệ khăng khít với nhau.
Đặc trưng của thương mại quốc tế :
Quan hệ thương mại quốc tế là sự tiếp tục trực tiếp các quan hệ sản xuất bên trong của một quốc gia song nó được phát triển trong môi trường khác. Ở đó thể hiện các quan hệ kinh tế hoàn toàn không giống các quan hệ kinh tế trong nước. Sự phát triển các mối quan hệ thương mại quốc tế diễn ra giữa các chủ thể trên thị trường theo những hình thức và phương pháp riêng biệt. Thương mại quốc tế có nét đặc trưng đó là:
Quan hệ trong thương mại quốc tế là mối quan hệ thỏa thuận tự
nguyện giữa các quốc gia độc lập, giữa các tổ chức kinh tế có tính chất pháp nhân. Quan hệ thương mại quốc tế chỉ có thể phát triển trên cơ sở giữ vững chủ quyền, thực hiện nguyên tắc bình đẳng và các bên tham gia cùng có lợi thông qua các hợp đồng kinh tế và sự chấp nhận của các bên tham gia.
Thương mại quốc tế diễn ra theo các yêu cầu của quy luật kinh tế
trong điều kiện nền kinh tế thế giới vận hành theo cơ chế thị trường.
Thương mại quốc tế chịu sự tác động của các hệ thống quản lý
khác nhau, các chính sách luật pháp thể chế của từng quốc gia cũng như các điều ước quốc tế. Quan hệ thương mại giữa các nước dẫn đến sự gặp gỡ, va chạm giữa hệ thống quản lý, chính sách luật pháp từng quốc gia. Thương mại quốc tế một mặt phải thực hiện đúng các yêu cầu luật pháp trong nước nhưng mặt khác phải biết tôn trọng và vận dụng phù hợp yêu cầu luật pháp và chính sách của quốc gia có liên quan.
Thương mại quốc tế được vận hành gắn liền với sự gặp gỡ và
chuyển đổi giữa các đồng tiền. Vấn đề tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán, quản lý ngoại hối là những nội dung quan trọng trong thương mại quốc tế.
Khoảng cách về không gian địa lý ít nhiều tác động đến quá trình
phát triển của thương mại quốc tế vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí vận chuyển, thanh toán.v.v..
.
Các nội dung cơ bản của thương mại quốc tế là: Xuất nhập khẩu
hàng hóa hữu hình. Nội dung thứ hai là xuất nhập khẩu hàng hóa vô hình như bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế, các dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu.v.v... Đây là bộ phận có tỷ trọng ngày càng cao. Thứ ba là gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công. Nội dung thứ tư: tái xuất khẩu và chuyển khẩu. Hình thức cuối cùng đó là xuất khẩu tại chỗ. Trong 5 nội dung này thì hoạt động xuất nhập khẩu là nội dung quan trọng, cơ bản nhất trong thương mại quốc tế. Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hóa, dịch vụ với nước ngoài, lấy tiền tệ làm môi giới theo nguyên tắc ngang giá. Cơ sở của sự trao đổi hàng hóa là do phân công lao động xã hội, hợp tác quốc tế cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Điều này làm mạng lưới thương mại quốc tế ngày càng mở rộng. Hoạt động xuất nhập khẩu ra đời, tồn tại và phát triển luôn gắn liền với lợi ích của mỗi quốc gia.
Các lý thuyết về thương mại quốc tế
Tuy cách tiếp cận và nhìn nhận vai trò của ngoại thương có khác nhau nhưng từ rất sớm các nhà kinh tế đã thừa nhận vai trò quan trọng của ngoại thương nói chung và của xuất nhập khẩu nói riêng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Từ thế kỷ XVI –XVII, trường phái trọng thương ở Tây Âu mà đại biểu là Thomas Mum đã đề cao vai trò của ngoại thương đối với sự giàu có của một quốc gia. Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng của giai cấp tư sản trong giai đoạn phương thức sản xuất phong kiến tan rã, chủ nghĩa tư bản mới ra đời. Ngoại thương lúc này là phương tiện để giai cấp tư sản thực hiện cướp bóc ở thuộc địa thông qua việc trao đổi không ngang giá, quốc gia này giàu lên trên cơ sở quốc gia khác chịu bất lợi. Nhiều lập luận của chủ nghĩa trọng thương đến nay vẫn còn giá trị. Đó là sớm đánh giá được vai trò quan trọng của xuất nhập khẩu với sự phát triển kinh tế của quốc gia; Chỉ ra rằng khi năng lực sản xuất trong nước vượt quá mức cầu thì lúc đó hạn chế nhập khẩu khuyến khích xuất khẩu là việc một quốc gia cần theo đuổi. Các tác giả chủ nghĩa trọng thương có lý khi cho rằng sự gia tăng mức cung tiền tệ sẽ có tác dụng kích thích sản xuất trong nước. Tuy vậy nó còn khá nhiều điểm hạn chế như chưa giải thích được bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế. Quan niệm chưa đúng về bản chất của thương mại quốc tế, cho rằng chỉ có một bên có lợi, một bên chịu thiệt, tổng lợi ích của thương mại quốc tế đem lại cho nền kinh tế thế giới là 0.
Sang đến thế kỷ XVIII trở đi vai trò của ngoại thương được nhìn nhận tổng thể với các lĩnh vực khác nhau, khắc phục được một số hạn chế của chủ nghĩa trọng thương về thương mại quốc tế. Tiêu biểu là lý thuyết lợi thế tuyệt đối của nhà kinh tế học người Anh Adam-Smith (1923- 1790). Ông là người đầu tiên đưa ra sự phân tích có tính hệ thống về nguồn gốc của thương mại quốc tế. Theo quan điểm này, một nước chỉ sản xuất các loại hàng hóa tốt nhất các loại tài nguyên của quốc gia đó. Giả sử chỉ có hai quốc gia A và B. Quốc gia A xét trong tương quan với quốc gia B tỏ ra có lợi thế hơn, hiệu quả hơn trong việc sản xuất mặt hàng X và kém hiệu quả hơn trong việc sản xuất mặt hàng Y. Nước B có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng Y, bất lợi tuyệt đối về sản xuất mặt hàng X. Hai nước tập trung sản xuất vào mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối và xuất khẩu mặt hàng này sang nước kia để đổi lấy mặt hàng mà mình bất lợi. Lúc này cả hai nước đều thu được lợi và sung túc hơn. Việc tiến hành trao đổi buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia phải tạo ra lợi ích cho cả hai bên. Nếu một quốc gia có lợi còn quốc gia khác bị thiệt thì sẽ từ chối tham gia thương mại quốc tế. Lợi thế tuyệt đối là cơ sở để các quốc gia xác định hướng chuyên môn hóa và trao đổi các mặt hàng, nó giải thích được quan hệ thương mại giữa hai nước đang phát triển, giải thích được phần nào lợi ích của thương mại quốc tế . Tuy nhiên lý thuyết lợi thế tuyệt đối không giải thích được tại sao thương mại vẫn diễn ra khi một nước bất lợi tuyệt đối về tất cả các mặt hàng so với đối thủ cạnh tranh.
Lý thuyết lợi thế tương đối do nhà kinh tế học David Ricardo (1772-1823) phát hiện đã khắc phục nhược điểm của lợi thế tuyệt đối. Cho rằng nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để thu lợi ích. Quốc gia đó sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu những loại hàng mà việc sản xuất chúng bất lợi nhất. Lý thuyết lợi thế tương đối chỉ ra rằng bất cứ quốc gia nào cũng có thể tham gia thương mại quốc tế song lý thuyết chủ yếu dựa vào giá trị lao động, cho lao động là yếu tố đầu vào duy nhất vì vậy nó chưa giải thích được nguồn gốc thương mại quốc tế trong nền kinh tế hiện đại.
Mô hình H-O do nhà kinh tế học E.Heckscher(1897-1952) và B.Ohlin(1899-1979) kế thừa lý thuyết lợi thế tương đối và bổ sung thêm một số luận điểm mới khi xem xét tới chi phí cơ hội và quy luật tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất. Hai ông cho rằng chính mức độ sẵn có của yếu tố sản xuất và hàm lượng các yếu tố sản xuất sử dụng để sản xuất ra sản phẩm đó ở các quốc gia khác nhau là yếu tố quan trọng quyết định hoạt động của thương mại quốc tế. Mô hình thừa nhận rằng hàm sản xuất các loại hàng hóa khác nhau sử dụng các yếu tố sản xuất theo tỷ lệ khác nhau nhưng hàm sản xuất cho bất kỳ hàng hóa nào cũng giống nhau ở tất cả các nước. Cho rằng giả sử một quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào sẽ chuyên sâu vào sản xuất hàng hóa sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu hàng hóa sử dụng các yếu tố công nghệ mà trong nước khan hiếm. Lợi ích thương mại quốc tế sẽ tăng thêm, các quốc gia đều có lợi. So với những lý thuyết cổ điển, lý thuyết H-O không những giải thích được bản chất của lợi thế so sánh mà còn cho phép phân tích được tác động của thương mại quốc tế đến giá cả các yếu tố sản xuất, đến quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các quốc gia. Tuy mô hình thể hiện những khiếm khuyết trước thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế diễn ra ngày càng phát triển và phức tạp nhưng cho đến nay lý thuyết vẫn được sử dụng rộng rãi để phân tích các vấn đề thương mại và tăng trưởng, thương mại và phân phối thu nhập. Có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển tham gia hội nhập vào kinh tế thế giới khi tận dụng lượng nhân công làm lợi thế cạnh tranh để sản xuất các mặt hàng phù hợp.
1.1.3. Vai trò hoạt động xuất nhập khẩu với sự phát triển kinh tế
Xuất nhập khẩu là hoạt động trung tâm của thương mại quốc tế. Đây là hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, cải thiện nâng cao mức sống của người tiêu dùng. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động xuất nhập khẩu mang lại nhiều tác động tích cực cũng như những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
Những tác động tích cực của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế:
- Xuất nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Xuất nhập khẩu là lĩnh vực trao đổi, phân phối lưu thông hàng hóa dịch vụ với nước ngoài, nối liền sản xuất và tiêu dùng trong nước với sản xuất và tiêu thụ trên thế giới. Trong quá trình tái sản xuất mở rộng thì khâu phân phối và lưu thông này được coi là khâu quan trọng, quyết định tới sản xuất. Sản xuất có phát triển được hay không và phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào khâu này. Chính vì vậy có thể nói rằng xuất nhập khẩu tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất .
Xuất nhập khẩu thúc đẩy phân công lao động và hợp tác quốc tế , mở rộng khả năng sản xuất và khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia. Thông qua nhập khẩu sẽ góp phần bổ sung những mất cân đối của nền kinh tế, bảo đảm sự phát triển và ổn định. Nó cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn mà trong nước không có khả năng sản xuất được. Đó là cơ sở để nâng cao mức sống của dân cư trong nước và dân cư thế giới nói chung. Thông qua xuất nhập khẩu có thể nhận thấy và khai thác những thế mạnh, tiềm năng của đất nước, từ đó tiến hành phân công lại lao động cho phù hợp.
Xuất nhập khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển sản xuất. Tạo điều kiện cho các nước tranh thủ khai thác các thế mạnh, tiềm năng của nước khác để thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ về khoa học, công nghệ và sử dụng những hàng hóa dịch vụ tốt hơn. Nhập khẩu sẽ tạo nên những động lực để thúc đẩy xuất khẩu (nhập khẩu các yếu tố của sản xuất để tiến hành sản xuất ra sản phẩm và xuất khẩu ra nước ngoài). Nhập khẩu các yếu tố sản xuất để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhằm làm tăng khả năng sản xuất. Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ để phục vụ lại nhập khẩu, tích lũy để phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho quốc gia có được nguồn ngoại tệ mạnh. Xuất khẩu và nhập khẩu vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu để tăng khả năng nhập khẩu và ngược lại thúc đẩy nhập khẩu để mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường. Xuất nhập khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khi tham gia vào thị trường quốc tế, các nhà sản xuất trong nước không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn phải cạnh tranh với cả hàng hóa của nước ngoài nhập khẩu vào. Do vậy xuất nhập khẩu tạo áp lực cạnh tranh đối với hàng hóa sản xuất trong nước về chất lượng, giá cả hàng hóa và chất lượng dịch vụ. Muốn phát triển, các doanh nghiệp phải đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, hay nói cách khác phải đổi mới,hoàn thiện sản phẩm, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao tay nghề trình độ người lao động. Xuất nhập khẩu nâng cao hiệu quả hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhất là ở các khu chế xuất, khu công nghiệp, tăng thu nhập và mức sống cho người dân. Xuất nhập khẩu tạo nên những chuyển biến mới về phân công lao động xã hội.
Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu góp phần mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế, xã hội giữa các nước. Thông qua đó góp phần ổn định tình hình kinh tế chính trị của quốc gia, khu vực và thế giới. Thật vậy thông thường hoạt động thương mại, hoạt động xuất nhập khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại nên nó là cơ sở để mở rộng quan hệ này phát triển. Ví dụ hoạt động xuất nhập khẩu phát triển làm quan hệ tín dụng, thanh toán quốc tế, vân tải quốc tế… phát triển.
Xuất nhập khẩu thúc đẩy quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào
trong nước.
Thương mại quốc tế hay xuất nhập khẩu kích thích nhu cầu trong
nước và tạo ra những nhu cầu mới.
Những tác động tiêu cực của hoat động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế
Hàng hóa cạnh tranh cả trong nước và nước ngoài, khi mức độ cạnh tranh trở nên quá gay gắt tạo nên những bất cập rối ren trong quan hệ thương mại. Nếu không kiểm soát chặt chẽ và kịp thời gây nên những thiệt hại về kinh tế và quan hệ thương mại, ngoại giao giữa các nước.
Xuất nhập khẩu hàng hóa vào một quốc gia dễ tồn tại các hiện tượng xấu như buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, kém chất lượng. Nhất là ở các cửa khẩu, nơi cán bộ hải quan kiểm tra hàng hóa ra vào biên giới dễ xảy ra hiện tượng một số cán bộ tha hóa đạo đức, tiếp tay cho những hành vi xấu…
- Xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước thông qua quan hệ mua bán nhằm mục đích kinh tế và thu lợi nhuận. Nó chịu sự tác động của hệ thống quản lý, chính sách, luật pháp không chỉ của một nước. Quan hệ mua bán phức tạp hơn rất nhiều so với thương mại trong nước dễ gây ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, hoặc kinh doanh vi phạm luật pháp của nước ngoài ví dụ như các vụ kiện bán phá giá, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm.v.v... Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng xuất khẩu thường là các đồng ngoại tệ mạnh, do vậy các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ chịu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền, có chút ràng buộc vào nền kinh tế nước khác.
Hoạt động xuất nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng với sự
phát triển kinh tế của một quốc gia. Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ hội nhập là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của quốc gia, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2. Tín dụng xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm tín dụng xuất nhập khẩu
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thương mại thế giới ngày càng mở rộng, nhu cầu về hàng hóa, thị trường tiêu thụ trở nên cấp bách, mỗi doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế cần phải khai thác tối đa cơ hội, lợi thế của mình. Tuy nhiên do khả năng tài chính có hạn, các doanh nghiệp không phải lúc nào cũng có đủ vốn để thanh toán tiền hàng nhập khẩu hoặc đủ tiền thu mua hàng hóa để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp đủ khả năng tài chính để xuất nhập khẩu hàng hóa nhưng kinh doanh vẫn không đạt hiệu quả vì chưa có uy tín trên thị trường. Từ đó nảy sinh quan hệ tín dụng giữa một bên là các ngân hàng với một bên là các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất nhập khẩu. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay trở lại người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Tín dụng xuất khẩu là loại hình tài trợ xuất khẩu cơ bản, quan trọng và phổ biến nhất trong các loại hình tài trợ xuất khẩu, có bản chất là sự cung cấp tín dụng trợ giúp tài chính cho người xuất khẩu trên cơ sở bên cung cấp tín dụng và bên nhận tín dụng tin cậy lẫn nhau và cùng có lợi. Ta có thể hiểu “ tín dụng xuất khẩu là sự cam kết, hỗ trợ về mặt tài chính để các nhà xuất khẩu nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời giúp các nhà nhập khẩu nước ngoài có đủ các điều kiện về tài chính để nhập khẩu hàng hoá của nước đó“
1.2.2. Đặc điểm của tín