Theo tinh thần nghị quyết đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12 năm 1986, những năm qua, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển dần từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lí, điều tiết của Nhà nước. Đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu công nghiệp hoá rất quan trọng: Trong tổng GDP, tỷ trọng nông lâm nghiệp, thuỷ sản là 23%, tỷ trọng công nghiệp xây dựng là 38% và tỷ trọng dịch vụ là 39%.
Trên lộ trình mở cửa, tự do hoá thương mại với sự kiện ký kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và không đánh thuế hàng xuất nhập khẩu sắp tới hứa hẹn nhiều cơ hội cũng như thách thức lớn cho Việt Nam. Trước những sức ép cạnh tranh và đòi hỏi mới của thị trường, Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện cho sự phát triển kinh tế toàn diện và mũi nhọn. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tự tìm kiếm cơ hội cho mình ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước. Muốn thực hiện được điều này thì nhu cầu vốn cho đầu tư là rất lớn, đặc biệt là đầu tư tài sản cố định và cơ sở hạ tầng (đầu tư dài hạn), do đó, nhu cầu vốn trung, dài hạn là rất lớn.
Ngân hàng công thương Phúc Yên (NHCT Phúc Yên) là chi nhánh Ngân hàng cấp 2 thuộc hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam. Tuy mới được thành lập nhưng đã góp phần đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá của khu vực và đất nước. Hiện nay, địa bàn hoạt động của chi nhánh đang xây dựng nhiều khu công nghiệp mới, trên đà phát triển thành khu công nghiệp vệ tinh của Hà Nội (trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Việt Nam) nên nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên, hoạt động của chi nhánh NHCT Phúc Yên còn nhiều tồn tại trong công tác tín dụng, mà rõ nét nhất là chất lượng tín dụng trung, dài hạn chưa cao đang đòi hỏi có những giải pháp tháo gỡ kịp thời và có hiệu quả cả tầm vi mô lẫn vĩ mô.
Qua một thời gian thực tập và tìm hiểu tại NHCT Phúc Yên (Mê Linh-Phúc Yên-Vĩnh Phúc), chính tính cấp bách trong chất lượng tín dụng trung, dài hạn của chi nhánh đã thôi thúc em lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Công thương Phúc Yên” để nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề được kết cấu gồm 2 chương:
Chương I: Các vấn đề chung về chất lượng tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn của NHCT Phúc Yên từ năm 2000 đến năm 2002.
77 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1922 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Công thương Phúc Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Theo tinh thần nghị quyết đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12 năm 1986, những năm qua, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển dần từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lí, điều tiết của Nhà nước. Đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu công nghiệp hoá rất quan trọng: Trong tổng GDP, tỷ trọng nông lâm nghiệp, thuỷ sản là 23%, tỷ trọng công nghiệp xây dựng là 38% và tỷ trọng dịch vụ là 39%.
Trên lộ trình mở cửa, tự do hoá thương mại với sự kiện ký kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và không đánh thuế hàng xuất nhập khẩu sắp tới hứa hẹn nhiều cơ hội cũng như thách thức lớn cho Việt Nam. Trước những sức ép cạnh tranh và đòi hỏi mới của thị trường, Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện cho sự phát triển kinh tế toàn diện và mũi nhọn. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tự tìm kiếm cơ hội cho mình ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước. Muốn thực hiện được điều này thì nhu cầu vốn cho đầu tư là rất lớn, đặc biệt là đầu tư tài sản cố định và cơ sở hạ tầng (đầu tư dài hạn), do đó, nhu cầu vốn trung, dài hạn là rất lớn.
Ngân hàng công thương Phúc Yên (NHCT Phúc Yên) là chi nhánh Ngân hàng cấp 2 thuộc hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam. Tuy mới được thành lập nhưng đã góp phần đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá của khu vực và đất nước. Hiện nay, địa bàn hoạt động của chi nhánh đang xây dựng nhiều khu công nghiệp mới, trên đà phát triển thành khu công nghiệp vệ tinh của Hà Nội (trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Việt Nam) nên nhu cầu vốn rất lớn. Tuy nhiên, hoạt động của chi nhánh NHCT Phúc Yên còn nhiều tồn tại trong công tác tín dụng, mà rõ nét nhất là chất lượng tín dụng trung, dài hạn chưa cao đang đòi hỏi có những giải pháp tháo gỡ kịp thời và có hiệu quả cả tầm vi mô lẫn vĩ mô.
Qua một thời gian thực tập và tìm hiểu tại NHCT Phúc Yên (Mê Linh-Phúc Yên-Vĩnh Phúc), chính tính cấp bách trong chất lượng tín dụng trung, dài hạn của chi nhánh đã thôi thúc em lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Công thương Phúc Yên” để nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề được kết cấu gồm 2 chương:
Chương I: Các vấn đề chung về chất lượng tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn của NHCT Phúc Yên từ năm 2000 đến năm 2002.
CHƯƠNG I:
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN CỦA NHTM
1. Hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHTM
1.1. Hoạt động cơ bản của NHTM
Khái niệm Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại được định nghĩa là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là nhận gửi, cho vay và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Như vậy, hoạt động của ngân hàng thương mại có thể khái quát thành 3 nghiệp vụ chính là:
* Tạo lập nguồn vốn:
Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào, để có thể hoạt động được thì cần phải có vốn. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại hình thành từ hai nguồn chủ yếu:
Nguồn vốn chủ sở hữu hình thành từ nguồn vốn pháp định và vốn bổ xung: Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là lượng vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên các trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành từ loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
+ Vốn pháp định là khoản vốn bắt buộc phải có trước khi đi vào hoạt động. Nguồn vốn này thường phụ thuộc vào tính chất, qui mô của từng loại ngân hàng. Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Ví dụ như Ngân hàng Công thương Việt Nam khi mới thành lập có nguồn vốn pháp định là 200 tỷ VNĐ. Nguồn vốn pháp định có thể do Nhà nước cấp đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh hoặc do các chủ sở hữu cấp đối với các Ngân hàng thương mại cổ phần. Tuy nhiên thì vốn pháp định vẫn có thể được điều chỉnh tăng hoặc giảm tuỳ theo mục đích của từng ngân hàng.
+ Vốn bổ xung: vốn pháp định chỉ là khoản vốn ban đầu, hàng năm các Ngân hàng thương mại phải bổ xung vốn bằng cách trích từ lợi nhuận kinh doanh hoặc bằng mức đóng góp của các chủ sở hữu.
Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không thì chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận sẽ cao hơn so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bổ xung từ đóng góp của các chủ sở hữu thông qua: phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị hoặc đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng Nhà nước quy định. Đặc điểm của hình thức huy động vốn này là không thường xuyên song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
+ Các quỹ:
Ngân hàng có nhiều quỹ, mỗi quỹ có mục đích riêng mà trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất (vốn tích luỹđược trích lập hàng năm nhằm bù đắp tổn thất), quỹ bảo toàn vốn (nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát), quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa mệnh giá và thị giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới, ngoài ra còn có các quỹ: quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc… Các quỹ này thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng quỹ.
+ Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần:
Các khoản vay trung, dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Nguồn vốn chủ sở hữu Ngân hàng là rất quan trọng đối với quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường xuyên và đảm bảo cho ngân hàng phát triển lâu dài. Nguồn vốn chủ sở hữu đóng vai trò là một tấm đệm để chống rủi ro phá sản vì vốn này giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi các vấn đề được giải quyết và đưa ngân hàng trở lại hoạt động sinh lời. Vốn này cũng là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có thể huy động tiền gửi chỉ với tỷ lệ quy định. Vốn càng lớn thì càng tạo niềm tin cho công chúng vào sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Và hơn thế, vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những trương trình và thiết bị mới - điều kiện sống còn cho ngân hàng trong xu thế phát triển như vũ bão của xã hội.
Nguồn vốn thứ hai là nguồn huy động vốn nhàn rỗi từ xã hội:
Thu hút vốn nhàn rỗi trong xã hội là nhiệm vụ hàng đầu của nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn và là chức năng cơ bản của Ngân hàng thương mại. Phương thức này tạo ta nguồn vốn chủ lực cho ngân hàng thương mại. Ngân hàng không thể tồn tại nếu không huy động nguồn vốn này.
Các Ngân hàng thương mại thường huy động vốn dưới nhiều hình thức như nhận tiền gửi (tiền gửi giao dịch, tiền gửi tiết kiệm), phát hành trái phiếu (tín phiếu ngân hàng, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng...) và đi vay. Nguồn vốn này là cơ sở chính cho các khoản vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển ngân hàng.
Tiền gửi khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh mạnh mẽ và có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động vốn khác nhau:
+ Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): đây là nguồn tiền mà các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Lãi suất của khoản tiền này rất thấp, có khi bằng không nhưng bù lại khách hàng có thể được hưởng những dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: Các tổ chức xã hội hay các doanh nghiệp có nhiều khoản thu không phải thanh toán ngay nên ngân hàng đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Loại tiền gửi này khách hàng không được hưởng các dịch vụ như tiền gửi thanh toán nhưng lại được hưởng với lãi suất cao hơn tuỳ độ dài kỳ hạn. Nếu khách hàng cần tiền, họ có thể đến rút ra khi chưa đến hạn và hưởng lãi suất không kỳ hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Tương tự như huy động tiền gửi tiết kiệm của các doanh nghiệp, tuy nhiên nguồn huy động này thường ổn định hơn và thời hạn thường dài hơn. Hiện nay ngân hàng áp dụng rất nhiều các hình thức huy động đa dạng kết hợp với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn để thu hút ngày càng nhiều lượng tiền gửi dân cư.
+ Tiền gửi của ngân hàng khác:
Nhằm mục đích thanh toán hộ và một số mục đích khác, ngân hàng thương mại thường gửi tiền tại các ngân hàng thương mại khác. Quy mô loại tiền gửi này thường không lớn.
Nguồn thứ ba là vốn đi vay: Đôi khi cần thiết, ngân hàng thường phải vay mượn thêm. Các ngân hàng thường đi vay ở NHNN, vay các tổ chức tín dụng khác hoặc vay trên thị trường vốn. Các khoản vay này nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại nên thường phải chịu những chi phí lớn hoặc ràng buộc nhất định.
NHTM còn có thể tận dụng các nguồn vốn khác như: vốn uỷ thác của các tổ chức tín dụng lớn, các tổ chức tín dụng nước ngoài, nguồn vốn phát sinh trong quá trình thanh toán giữa các ngân hàng, các nguồn khác là các khoản nợ như thuế chưa nộp hay lương chưa phải trả…. Tuy nhiên nguồn vốn này thường không ổn định và không phải ngân hàng nào cũng có điều kiện sử dụng.
* Sử dụng vốn:
Hoạt động của ngân hàng là hình thức hoạt động tư duy hướng lợi nhuận, do đó các khoản vốn của ngân hàng phải được sử dụng một cách có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao nhất. Với nhu cầu xã hội ngày càng cao thì việc sử dụng vốn ngày càng được đa dạng phong phú hơn. Hiện nay, các ngân hàng thương mại có hướng sử dụng vốn chủ yếu là:
Cho vay:
Tín dụng là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng, là hình thức sử dụng vốn quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong toàn bộ tài sản có của ngân hàng thương mại, đây là các tài sản mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng thương mại nên chất lượng các khoản vay giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Để quản lý các khoản cho vay người ta thường phân loại chúng dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau. Nếu căn cứ vào thời hạn cho vay thì có thể phân loại thành các hình thức: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn.
+ Cho vay ngắn hạn: Đây là loại cho vay truyền thống, nhằm bổ xung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động cho các doanh nghiệp và cho vay tiêu dùng. Cụ thể là ở những dạng như: triết khấu các giấy tờ có giá, ứng trước theo hợp đồng, khấu trừ chi qua tài khoản vãng lai... thời hạn cho vay ngắn hạn ở Việt Nam là không quá 12 tháng.
+ Cho vay trung, dài hạn: Được thực hiện đối với những chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội. Đối tượng cho vay trung và dài hạn thường là để xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định, đổi mới và mở rộng hoạt động kinh doanh và các đối tượng khác có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài ngày. Hiện nay ở Việt Nam cho vay trung hạn từ 1 đến 5 năm, còn cho vay dài hạn là trên 5 năm. Tỷ trọng cho vay trung, dài hạn hiện nay còn thấp nhưng theo xu hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì chắc chắn tỷ trọng này sẽ càng tăng.
Ngoài ra còn có các hình thức tín dụng khác như: cho vay, bảo lãnh, cho thuê (dựa vào hình thức tài trợ tín dụng); tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố; tín dụng phân lợi theo rủi ro (khoản tín dụng có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp); tín dụng theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp…) hoặc theo đối tượng tài trợ (hàng hoá, bất động sản…) hoặc theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…)
Hoạt động đầu tư:
Ngoài hoạt động cho vay, các hoạt động đầu tư cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ trong bảng cân đối của ngân hàng thương mại bởi hoạt động đầu tư giúp tăng thu nhập cho ngân hàng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động. Hoạt động đầu tư chủ yếu là các hoạt động như: mua bán các chứng khoán chính phủ, mua cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp (tham gia vào thị trường chứng khoán)
Hoạt động ngân quỹ:
Bao gồm các hoạt động chi trả đối với khách hàng về tiền mặt, tiền gửi, tiền vay trong quá trình thu nhận và nghiệp vụ chứng khoán ngắn hạn. Trong tổng nguồn vốn huy động được, các ngân hàng thương mại phải dành một tỷ lệ dự trữ nhất định gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Nếu dự trữ qúa lớn xẽ gây lãng phí vốn, ngược lại thì xẽ không đủ khả năng thanh toán cho khách hàng gây mất uy tín đối với khách hàng và có thể còn dẫn đến đổ vỡ ngân hàng. Do đó để đảm bảo khoản dự trữ an toàn là hết sức khó khăn. Hiện nay, sự xuất hiện thị trường liên ngân hàng đã giúp cho các ngân hàng giảm bớt khó khăn trong tính toán việc dự trữ của mình.
* Các hoạt động trung gian:
Các hoạt động trung gian gồm có các nghiệp vụ thanh toán tiền hàng, quản lý tài sản, dịch vụ chứng khoán, cung cấp thông tin tư vấn, ... những nghiệp vụ thực hiện sự uỷ thác của khách hàng. Trong giai đoạn hiện nay cũng như sau này, với sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường thì các hoạt động trung gian càng đóng vai trò quan trọng. Xu hướng loại hình dịch vụ trung gian sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong tương lai.
1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại:
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và các tổ chức trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất . Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn được gọi là tín dụng ngân hàng).
1.2.1. Khái niệm:
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (các cá nhân và thành phần kinh tế); trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định kèm theo các điều kiện bảo đảm thoả thuận giữa hai bên, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh toán.
Có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng nhưng thông thường các ngân hàng thường phân tín dụng theo thời hạn. Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và hiệu quả cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành: tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung dài hạn:
+ Tín dụng ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn cho vay đến 12 tháng
+ Tín dụng trung hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
+ Tín dụng dài hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên.
Thời hạn những khoản tín dụng này phụ thuộc vào mục đích xin vay, chu kỳ sản xuất kinh doanh của dự án.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
Nếu như huy động vốn là hoạt động tập chung vốn nhàn rỗi từ trong dân cư thì hoạt động tín dụng lại chuyển giao vốn cho những người có nhu cầu sử dụng vốn. Ngân hàng chính là trung gian dẫn chuyển vốn từ những người thừa vốn đến người thừa vốn một cách có hiệu quả nhất. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế.
- Ngân hàng tham gia vào thúc đẩy quá trình tích tụ và tập chung vốn cho sản xuất:
Tín dụng ngân hàng đáp ứng được nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất liên tục, tập chung vốn cho quá trình tái sản xuất mở rộng với quy mô ngày càng lớn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc tập chung vốn và phân phối vốn đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Như vậy tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là đòn bẩy trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong quá trình sản xuất, tín dụng trung, dài hạn như là một nguồn hình thành vốn cố định, là nguồn bổ xung vốn thiếu hụt cho các hoạt động cải tạo, đổi mới, thay thế trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
Tín dụng trung dài hạn là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế và góp phần tăng trưởng kinh tế cho các ngành kinh tế mũi nhọn:
Bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi đối với những ngành kinh tế mũi nhọn cũng như các ngành kinh tế khác cần thiết cho quốc kế dân sinh, tín dụng ngân hàng giúp những ngành kinh tế này phát triển. Tín dụng hình thức này thay thế cho hình thức cấp vốn ngân sách nhà nước. Vì đặc trưng của tín dụng là hoàn trả cả vốn lẫn lãi giúp cho các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn là được cấp ngân sách, do không hoàn trả nên người sử dụng thường không quan tâm tới việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế và góp phần tạo nên một cơ cấu kinh tế hợp lý:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh là yếu tố tất yếu của môi trường hoạt động của các doanh nghiệp. Để thắng đối thủ cạnh tranh đạt hiệu qủa kinh tế cao nhất, các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm thị trường mới và thực hiện các biện pháp như ứng dụng các thành tựu khoa học hay áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Muốn thực hiện được điều này thì doanh nghiệp cần phải có nguồn vốn đầu tư lớn mà tín dụng ngân hàng chính là nguồn tài trợ cho những nhu cầu này.
Bên cạnh đó, việc di chuyển hoạt động kinh doanh từ ngành này sang ngành khác hay đầu tư vào một ngành mới đòi hỏi lượng vốn rất lớn. Tín dụng ngân hàng là một biện pháp mà các doanh nghiệp thường sử dụng để đáp ứng cho nhu cầu vốn lớn và tập chung đó. Với sự giúp đỡ này, các nhà sản xuất kinh doanh dễ dàng chuyển từ ngành kinh doanh có lợi nhuận thấp sang ngành có lợi nhuận cao, tạo điều kiện bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế nhằm hình thành nên một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Tín dụng ngân hàng có vai trò quyết định đến sự ổn định lưu thông tiền tệ:
Trong nền kinh tế thị trường, việc chú trọng phát triển lưu thông hàng hoá phải luôn gắn liền với ổn định lưu thông tiền tệ. Do tính ưu việt của mình, tín dụng ngân hàng đóng cũng đóng vai trò quyết định tới sự ổn định lưu thông tiền tệ. Trước hết ngân hàng là kênh quan trọng để đưa tiền vào lưu thông, có khả năng kiểm soát được khối lượng tiền lưu thông phù hợp với lưu thông hàng hoá. Nếu tín dụng ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì khi cho vay sẽ đảm bảo cung ứng lượng tiền vào lưu thông là phù hợp.
Ngân hàng là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nước ngoài thúc đẩy quá trình mở rộng, tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế trong khu vực và thế giới:
Trước xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng có quan hệ tương hỗ với nền kinh tế các quốc gia khác trên thế giới. Đầu tư vốn ra nước ngoài hay thu hút vốn đầu tư nước ngoài, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá đã và đang là hai lĩnh vực hợp tác kinh tế thông dụng giữa các nước. Yếu tố đầu tiên quyết định mối quan hệ hợp tác này là vốn, do đó ngân hàng với khả năng đặc biệt của mình là huy động vốn và cung cấp vốn cho các hoạt động này, thông qua đó góp phần mở rộng và tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế với các nước.
Nước ta là nước có nền kinh tế đang phát triển, mối quan hệ này đóng vai trò hết sức quan trọng. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ta mở rộng xuất khẩu hàng hoá và tận dụng nguồn vốn bên ngoài đầu tư phát triển các thành phần kinh tế góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá