Ngày 10/1/ 2007, trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới – WTO cùng với những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới đã tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế Việt Nam phát triển. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu vốn càng lớn.
Bên cạnh những thuận lợi do hội nhập kinh tế đem lại thì nền kinh tế Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa - chiếm bộ phận lớn trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam, nhưng đang trong tình trạng có vốn đầu tư nhỏ và kĩ thuật lạc hậu. Sự xâm nhập của các công ty đa quốc gia có vốn đầu tư lớn, có kĩ thuật công nghệ hiện đại làm cho các doanh nghiệp đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, cạnh tranh trở lên khốc liệt hơn. Điều tất yếu là: muốn tồn tại được trong điều kiện đó thì buộc các DNN&V phải nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ thuật công nghệ, mở rộng sản xuất. Để thực hiện được ngoài nguồn vốn tự có (thường là rất nhỏ) các DNN&Vphải phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn đi vay từ các TCTD.
Đối với các NHTM, sự ra đời của hàng loạt các TCTD với những hình thức khác nhau và sự xâm nhập của hàng loạt các ngân hàng nước ngoài – quy mô vốn lớn, khả năng cho vay đối với các doanh nghiệp cao trong thời gian qua khiến cho sự canh tranh trở lên trở lên gay gắt hơn. Đồng thời các Ngân hàng Cổ phần với chính sách cho vay hấp dẫn hấp dẫn đã tạo áp lực lớn cho hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng quốc doanh. Trong điều kiện đó đòi hỏi Ngân hàng quốc doanh phải có những biện pháp tìm kiếm khách hàng mới phù hợp với khả năng của mình, DNN&V là một trong những đối tượng khách hàng rất phù hợp.
Vì thế, đề tài : “ Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ ” được chọn nhằm góp phần tổng kết lý luận và thực tiễn thông qua việc phân tích tình hình cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1 : Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM đối với DNN&V.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Chương 3 : Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với các DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo TS. Đặng Ngọc Đức đã giúp dỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các cô chú, anh chị cán bộ Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian thực tập vừa qua.
73 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 10/1/ 2007, trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới – WTO cùng với những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới đã tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế Việt Nam phát triển. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu vốn càng lớn.
Bên cạnh những thuận lợi do hội nhập kinh tế đem lại thì nền kinh tế Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa - chiếm bộ phận lớn trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam, nhưng đang trong tình trạng có vốn đầu tư nhỏ và kĩ thuật lạc hậu. Sự xâm nhập của các công ty đa quốc gia có vốn đầu tư lớn, có kĩ thuật công nghệ hiện đại làm cho các doanh nghiệp đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, cạnh tranh trở lên khốc liệt hơn. Điều tất yếu là: muốn tồn tại được trong điều kiện đó thì buộc các DNN&V phải nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ thuật công nghệ, mở rộng sản xuất. Để thực hiện được ngoài nguồn vốn tự có (thường là rất nhỏ) các DNN&Vphải phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn đi vay từ các TCTD.
Đối với các NHTM, sự ra đời của hàng loạt các TCTD với những hình thức khác nhau và sự xâm nhập của hàng loạt các ngân hàng nước ngoài – quy mô vốn lớn, khả năng cho vay đối với các doanh nghiệp cao trong thời gian qua khiến cho sự canh tranh trở lên trở lên gay gắt hơn. Đồng thời các Ngân hàng Cổ phần với chính sách cho vay hấp dẫn hấp dẫn đã tạo áp lực lớn cho hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng quốc doanh. Trong điều kiện đó đòi hỏi Ngân hàng quốc doanh phải có những biện pháp tìm kiếm khách hàng mới phù hợp với khả năng của mình, DNN&V là một trong những đối tượng khách hàng rất phù hợp.
Vì thế, đề tài : “ Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ ” được chọn nhằm góp phần tổng kết lý luận và thực tiễn thông qua việc phân tích tình hình cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1 : Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM đối với DNN&V.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Chương 3 : Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với các DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo TS. Đặng Ngọc Đức đã giúp dỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các cô chú, anh chị cán bộ Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian thực tập vừa qua.
CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
. Các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Khái niệm về DNN&V
Có nhiều căn cứ để phân loại doanh nghiệp, khi nói đến DNN&V là nói đến cách phân lọai doanh nghiệp dựa vào quy mô của doanh nghiệp. Mỗi quốc gia trên thế giới có đặc điểm riêng về nền kinh tế, trình độ phát triển nên những quy định chung về DNN&V cũng khác nhau. Tuy nhiên, có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về DNN&V như sau: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những cơ sở sản xuất – kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kì theo quy định của từng quốc gia”.
Như vậy có thể nói, tiêu thức phân loại doanh nghiệp được sử dụng phổ biến trên thế giới là:
+ Vốn sản xuất
+ Số lao động thường xuyên
+ Doanh thu
+ Lợi nhuận
+ Giá trị gia tăng
Trong số các tiêu thức trên thì quy mô vốn và số lượng lao động là những tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất. Ở mỗi nước, sự phân chia DNN&V cững không giống nhau và còn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh, ví dụ như: ở Nhật Bản các DNN&V thuộc khu vực sản xuất phải có số vốn dưới 1 triệu USD và số lao động không quá 300 người, còn khu vực thương mại dịch vụ thì có vốn dưới 300.000USD và lao động không quá 100 người. Tại Đài Loan, các doanh nghiệp trong ngành xây dựng có số vốn dưới 1,4 triệu USD, lao động dưới 300 người; trong khu vực công nghiệp khai khoáng có số vốn dưới 1,4 triệu USD và không quá 500 lao động là DNN&V.
Tại Việt Nam, Nghị định số 90/2001/NĐ – CP ra ngày 23/11/2001 quy định rõ: “DNN&V là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn dăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người ”.
Theo quy định này, DNN&V ở nước ta gồm các loại hình cơ sở sản xuất kinh doanh tồn tại trong tất cả các thành phần kinh tế, và thuộc các hình thức sở hữu sau:
+ Doanh nghiệp Nhà nước
+ Công ty Cổ phần, hợp danh
+Công ty trách nhiệm hữu hạn
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
+ Doanh nghiệp tư nhân
+ Hợp tác xã
+ Hộ kinh doanh các thể
Đặc điểm cơ bản của DNN&V
Trong thời gian qua, các DNN&V đã và đang chiếm một vị trí quan trọng đối với nền kinh tế của bất kì một quốc gia nào. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và tự do thương mại như hiện nay DNN&V càng phát huy được lợi thế, bao gồm:
1.1.2.1 Những ưu thế:
- DNN&V rất năng động, linh hoạt, có khả năng thích ứng cao trước sự thay đổi của thị trường. DNN&V có thể chuyển đổi hàng hóa mà mình cung cấp, chuyển hướng kinh doanh theo nguyên tắc kết hợp chuyên môn hóa với đa dạng hóa trên cơ sở đổi mới công nghệ, tăng cường liên doanh liên kết. Đồng thời với cơ sở vật chất kĩ thuật không lớn, DNN&V dễ dàng chuyển đổi hướng sản xuất hoặc thu hẹp quy mô mà không sợ gây ra những hậu quả nặng nề.
- Với tính chất nhỏ gọn, DNN&V chỉ cần đầu tư ít vốn vẫn có khả năng trang bị những máy móc với công nghệ cao và tương đối hiện đại. Tổ chức gọn nhẹ góp phần tiết kiệm chi phí quản lí, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- DNN&V cần ít diện tích đất sản xuất tập trung, có khả năng sản xuất nhỏ lẻ, do đó có thể tận dụng được các nguồn lực phân tán, phát huy được tiềm lực tại các địa phương trong cả nước như: khai thác tài nguyên tại chỗ, thu hút lao động có sẵn tại địa phương.
- Vốn đầu tư ban đầu của DNN&V tuy ít nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao, thu hồi vốn nhanh do đó có khả năng thu hút nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này.
1.1.2.2 Những bất lợi:
- Khả năng cạnh tranh thấp dó tiềm lực về kinh tế yếu: DNN&V có vốn chủ sở hữu ít, mặt khác thường thiếu tài sản thế chấp nên rất khó để vay vốn ngân hàng, còn việc huy động vốn trên thị trướng chứng khoán cũng rất khó khăn. Nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động được chủ yếu là từ người thân, bạn bè. Do đó DNN&V luôn thiếu vốn làm hạn chế cũng như bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh, không đáp ứng được yêu cầu mở rộng sản xuất, dẫn đến khả năng tự tích lũy của các doanh nghiệp cũng bị hạn chế.
- Khả năng hạn hẹp trong việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu, cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm: do hạn chế về vốn nên có những kế hoạch và chiến lược phát triển tốt bị bỏ qua dẫn đến khả năng cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp này thấp.
- DNN&V với quy mô kinh doanh không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp, sức cạnh tranh thấp do đó trong nhiều trường hợp thường bị động vì phụ thuộc vào hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn.
Vai trò của DNN&V
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song với những lợi thế của mình các DNN&V ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, kể cả nước có trình độ phát triển cao. Nhật Bản và các quốc gia châu Á đều đánh giá cao vai trò của DNN&V trong quá trình phát triển kinh tế của mình, trong đó Đài Loan được nhắc đến như là một điển hình tành công, là vương quốc của DNN&V. Năm 2000, DNN&V Đài Loan chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp, tạo ra khoảng 40% sản lượng công nghiệp, hơn 50% giá trị xuất khẩu và tạo ra hơn 70% công ăn việc làm mới. Đặc biệt, nhờ có DNN&V mà nền kinh tế Đài Loan đã giữ được ổn định trong cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997. Ở Đức, khu vực DNN&V nắm giữ một vị trí quan trọng đối với nền kinh tế, nó tạo ra 50% GDP, chiếm hơn 1/2 doanh thu chịu thuế của các doanh nghiệp, cung cấp các loại hàng hóa dịch vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Tại Việt Nam, các DNN&V được phát triển một cách chính thức kể từ khi có sự ra đời của Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty áp dụng vào năm 1990 và sửa đổi thành Luật doanh nghiệp năm 1999. Từ đó, số lượng DNN&V ở nước ta ngày càng gia tăng một cách mạnh mẽ. Hiện nay, DNN&V ở Việt Nam chiếm khoảng 97% trong tổng số hơn 200.000 doanh nghiệp đã thành lập trên toàn quốc. Các doanh nghiệp này đang đóng góp khoảng 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra hơn 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và thu hút hơn 26% lao động trong cả nước. Tuy nhiên đây chỉ là con số đóng góp trực tiếp, ngoài ra DNN&V còn có vai trò lớn trong mối quan hệ gắn kết với các doanh nghiệp lớn hơn.
Như vậy ta có thể khẳng định rằng đối với bất kì nền kinh tế nào thì DNN&V cũng đóng một vai trò quan trọng, thể hiện ở:
- Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, đóng góp đáng kể vào sự phát triển ổn định của của mỗi quốc gia. Khi các DNN&V hoạt động tích cực và hiệu quả thì sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự, phá vỡ một phần thế độc quyền của một số doanh nghiệp lớn, làm cho hàng hóa dịch vụ rẻ hơn, phục vụ tốt nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài ra các DNN&V có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ, chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Mặt khác, các DNN&V đóng góp vào GDP với một tỷ trọng tương đối lớn, do đó việc phát triển DNN&V có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế.
- Thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư thấp, góp phần giảm thất nghiệp. Nhìn chung, theo các số liệu thống kê ở một số nước châu Á thì các DNN&V chiếm khoảng 81 – 98% số doanh nghiệp, thu hút khoảng 30 – 60% lao động. Ở Việt Nam, số lượng DNN&V chiếm khoảng 97% trong tổng số doanh nghiệp đã đăng kí hoạt động, đóng góp khoảng 26% GDP của nền kinh tếvà thu hút khoảng 26% lực lượng lao động trong cả nước.
- Tạo nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước do DNN&V có khả năng tận dụng những tiềm năng sẵn có tại địa phương. Việc phát triển các doanh nghiệp thuộc ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng và được Nhà nước hết sức hỗ trợ vì không những làm tăng thu nhập cho người dân mà còn góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc.
- DNN&V hỗ trợ các doanh nghiệp lớn nâng cao hiệu quả kinh tế. Thực tiễn cho thấy một nền kinh tế có công nghệ hiện đại sẽ không hoàn chỉnh và không hiệu quả nếu không có những doanh nghiệp lớn và những doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn. Mối liên hệ thể hiện thông qua việc doanh nghiệp lớn cung cấp nguyên liệu sơ chế, thành phẩm, thiết bị, máy móc cho các doanh nghiệp nhỏ. Đồng thời các DNN&V tiếp nhận việc xây dựng cơ sở sản xuất và trang thiết bị, chế tạo các bộ phận đơn giản, cung cấp các dịch vụ công nghiệp như lắp đặt, sửa chữa bảo dưỡng, … cho các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra, DNN&V còn đóng vai trò làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hóa, thâm nhập vào các ngõ ngách của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không tới được.
- Khu vực DNN&V đặc biệt là các DNN&V ở nông thôn phát triển góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghịêp hóa. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên, phát triển nhiều ngành nghề đa dạng, phong phú, doanh nghiệp đươc phân bố đều hơn. Các doanh nghiệp ở nông thôn như: doanh nghiệp chế biến nông sản, phát triển các ngành nghề ở địa phương, … không những tạo đầu ra cho nguyên liệu từ nông nghiệp, nâng cao giá trị của nông sản mà còn thu hút lao động từ khu vực nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Có thể nói, sự phát triển của DNN&V ở nông thôn đã làm hài hòa các mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, góp phần xây dựng và phát triển nông thôn mới, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
- DNN&V nếu có điều kiện phát triển tốt thì đây chính là môi trường hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Cùng với việc phát triển các DNN&V là sự xuất hiện các nhà kinh doanh sang lập, bắt đầu kinh doanh với quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý sẽ được thử thách, đào tạo và tích lũy kinh nghiệm trở thành những nhà doanh nghiệp lớn.
Đối với Việt Nam, một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đang trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì vai trò của DNN&V lại càng quan trọng. Do đó, Nghị quyết TW khóa X đã nhấn mạnh: “ DNN&V là lọai hình doanh nghiệp rất phù hợp để phát huy mọi tiềm năng cho việc phát triển kinh tế và bước đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, phải quan tâm tới mọi thuận lợi cho DNN&V, kinh tế hộ gia đình phát triển”. Đây có thể coi là một chủ trương đúng của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế hiện nay.
Hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V của NHTM
Các vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
Khái niệm cho vay trung, dài hạn của ngân hàng
Cho vay là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản ca kết hoàn trả theo thời gian đã thỏa thuận.
Cho vay trung, dài hạn là các khoản cho vay của ngân hàng có thời hạn từ một năm trở lên. Việc phân chia cụ thể hoạt động cho vay trung, dài hạn tùy thuộc vào quy định của từng quốc gia, thông thường:
Cho vay trung hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm để tài trợ mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kĩ thuật, mở rộng công trình có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên được sử dụng để xây dựng, cải tạo hay hoàn thiện đồng bộ dây chuyền công nghệ.
Đặc điểm của hoạt động cho vay trung, dài hạn của NHTM
Có nhiều căn cứ để phân loại hoạt động cho vay của NHTM, nếu căn cứ vào thời hạn thì có thể phân thành: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn. Cho vay trung và dài hạn là những khoản vay có kỳ hạn vay từ 12 tháng trở lên, có những đặc điểm sau:
a, Về đối tượng cho vay: Những khoản cho vay trung, dài hạn chủ yếu được tài trợ cho những hoạt động đầu tư trung và dài hạn kéo dài từ 1 năm trở lên như mua sắm thiết bị , đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện các dự án đầu tư.
b, Về lãi suất cho vay: Do mức độ rủi ro cao nên lãi suất cho vay trung, dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Lãi suất cho vay trung, dài hạn có thể là lãi suất cố định hoặc lãi suất quy định thay đổi theo mức lãi suất thị trường. Việc quy định mức lãi suất cụ thể của từng ngân hàng có thể dựa vào mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố hoặc mức lãi suất của một số thị trường liên ngân hàng quan trọng.
c, Về kì hạn trả nợ: thời gian hoàn vốn của các khoản vay trung, dài hạn là rất chậm. Nguồn hoàn trả tiền vay của các doanh nghiệp chủ yếu được lấy từ quỹ khấu hao và một phần từ lợi nhuận chính của dự án mang lại. Để giảm mức độ rủi ro của loại hình cho vay này, các NHTM thường thông qua việc tạo ra một kì hạn trả nợ hợp lí. Thông thường thì nợ trung, dài hạn được hoàn trả theo hình thức phân kì, ở mỗi kì trả nợ người vay sẽ trả một khoản nhất định: có thể theo niên kim cố định hoặc theo niên kim không cố định. Tất cả các yếu tố như: thời hạn cho vay , kì hạn trả nợ, số tiền trả nợ từng kì đều đựơc xác định theo tính chất của khoản vay, khả năng chu chuyển vốn vay phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh, nguồn vốn của khách hàng và được ghi rõ ràng trong hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ.
Khi sử dụng vốn vay trung, dài hạn người vay phải tuân thủ theo nguyên tắc sử dụng vốn đúng mục đích:
Khi muốn vay vốn trung, dài hạn thì người vay phải soạn thảo dự án, kế hoạch kinh doanh của mình. Đó là cơ sở để người vay phân bổ vốn hợp lý cho các khoản mục từ đó ngân hàng có thể thẩm định khả năng trả nợ của người vay và tiến hành cho vay. Các khoản mục sử dụng vốn vay trung và dài hạn có thể bao gồm: Chi phí thuê mua đất làm mặt bằng sản xuất, chi phí xây dựng nhà xưởng, chi phí hình thành tài sản cố định … và một phần đầu tư vào tài sản lưu động ròng.
Các dự án, chương trình kinh doanh xin vay vốn phải nằm trong chương trình phát triển kinh tế chung của địa phương, của vùng, của Nhà nước và các dự án đó phải được các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và cho phép thực hiện. Biết trước được mục đích sử dụng vốn của người vay giúp ngân hàng có thể lượng hoá được mức độ rủi ro và có các biện pháp xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của khách hàng để đảm bảo nó được thực hiên đúng như những thoả thuận ghi trong hợp đồng tín dụng và không trái với các quy định pháp luật hiện hành.
d, Dự án vay vốn vay trung, dài hạn có hiệu quả kinh tế - xã hội cao:
Một dự án , kế hoạch kinh doanh muốn được vay vốn để thực hiện thì nó phải có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, những dự án có hiệu quả thấp không được phép vay vốn vì nó sẽ dẫn đến sự hoàn trả vốn khó khăn và gây ra hậu quả xấu cho nền kinh tế và có thể không được phép thực hiện.
Hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án là một tiêu chí quan trọng để thẩm định dự án vay vốn, nó cho phép dự báo nguồn trả nợ trong tương lai do dự án đem lại và những đóng góp củaviệc thực hiện dự án vào sự phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội như: tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động …
e, Việc sử dụng vốn vay trung, dài hạn phải tuân theo kì hạn đã thỏa thuận:
Theo quy định hiện hành, nguồn vốn vay trung, dài hạn là nguồn vốn vay có kì hạn từ 12 tháng trở lên. Kì hạn cụ thể của từng khoản vay sẽ do khách hàng và ngân hàng thoả thuận và được ghi trong hợp đồng tín dụng. Sở dĩ phải có kì hạn cụ thể cho từng khoản vay là do nguồn huy động của ngân hàng là có kì hạn, khi đến hạn ngân hàng phải hoàn trả cho người gửi thậm chí phải trả ở bất kì thời điểm nào nếu người gửi yêu cầu. Mặt khác, xác định rõ kì hạn cho vay trung, dài hạn nhằm giảm thiểu rủi ro mất vốn, rủi ro nợ xấu cho các ngân hàng.
Các điều kiện vay vốn trung và dài hạn
NHTM cho vay trung, dài hạn đối với các doanh nghiệp chủ yếu là để tài trợ cho đầu tư đổi mới, hiện đại hoá máy móc, trang thiết bị, thực hiện sản xuất kinh doanh mới …
Do đặc điểm cho vay trung, dài hạn là vốn vay lớn, thời gian vay kéo dài vì vậy mức độ rủi ro cao nên các NHTM hết sức thận trọng khi cho vay. Một số yếu tố chủ yếu mà các NHTM thường xem xét khi cho vay trung, dài hạn là:
a. Năng lực tài chính của khách hàng, hiệu quả của dự án đầu tư:
Năng lực tài chính hiện tại của khách hàng là một trong những yếu tố sẽ quyết định tới khả năng trả nợ của khách hàng, vì vậy ngân hàng thường yên tâm hơn khi cho các khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh vay vốn. Năng lực tài chính của một khách hàng, cụ thể là một doanh nghiệp được thể hiện qua bốn chỉ tiêu chủ yếu: khả năng thanh toán, quy mô và cơ cấu vốn, khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, … Thông qua việc phân tích các yếu tố này, ngân hàng sẽ có cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp từ đó làm cơ sở quan trọng cho việc ra phán quyết cho vay.
Yếu tố quan trọng nhất khi cho vay theo dự án đó là hiệu quả về mặt tài chính của dự án hay khả năng sinh lời của dự án vì nguồn trả nợ khi cho vay theo dự án bao gồm trích khấu hao và lợi nhuận hàng năm của dự án. Căn cứ vào việc phân tích khả năng tiêu thụ của sản phẩm trên thị trường, công suất thiết kế của tài sản cố định, thời gian thực hiện dự án, … nhà đầu tư sẽ tính toán dòng tiền vào, ra thu nhập ròng của dự án làm cơ sở để tính toán hiệu quả về mặt tài chính của dự án. Hiệu quả tài chính của dự án là một chỉ tiêu rất khó dự đoán