Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng với quá trình mở của, sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt, sức ép của hàng nhập lậu, của người tiêu dùng trong và ngoài nước buộc các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề bảo đảm và nâng cao chất lượng.
Chất lượng sản phẩm luôn là điểm yếu kéo dài nhiều năm ở nước ta. Trong nền kinh tế tập trung trước đây, vấn đề chất lượng đã từng được đề cao và được coi như là một mục tiêu quan trọng. Nhưng kết quả chưa mang lại là bao do cơ chế tập trung quan liêu phủ nhận nó trong các hoạt động cụ thể.
Trong hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, vấn đề chất lượng sản phẩm dần dần trở về đúng nghĩa của nó. Người tiêu dùng bắt đầu nhận thức được vấn đề chất lượng hàng hoá dịch vụ. Các nhà doanh nghiệp cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bắt đầu tìm tòi nghiên cứu những cơ chế mới về chất lượng cho thời kỳ tới. Chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh quyết định sự tồn tại, hưng vong của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung. Đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp là một yêu cầu khách quan góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, đóng góp vào việc nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Với hơn 47 năm phấn đấu xây dựng và trưởng thành, Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội bước sang cơ chế thị trường với muôn vàn khó khăn thử thách đã bước đầu đứng vững và đang trên đà phát triển. Trong tình hình sản xuất kinh doanh phức tạp hiện nay, Nhà máy còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa và nước ngoài mà nguyên nhân cốt lõi là chất lượng và giá thành chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Như vậy để nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy là một vấn đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn.
Vì những lý do trên, trong quá trình thực tập tại Nhà máy thiết bị bưu điện 61 Trần Phú Hà Nội, dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Trần Đình Chất em đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện”, làm chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận của vấn đề chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp công nghiệp trong cơ chế thị trường.
Phần II: Thực trạng về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội.
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TRẦN ĐÌNH CHẤT đã tận tình hướng dẫn em và cháu xin cảm ơn các cô các chú công tác ở Nhà máy thiết bị bưu điện đã giúp đỡ cháu nhiều trong việc thu thập số liệu để hoàn thành đề tài này.
64 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng với quá trình mở của, sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt, sức ép của hàng nhập lậu, của người tiêu dùng trong và ngoài nước buộc các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề bảo đảm và nâng cao chất lượng.
Chất lượng sản phẩm luôn là điểm yếu kéo dài nhiều năm ở nước ta. Trong nền kinh tế tập trung trước đây, vấn đề chất lượng đã từng được đề cao và được coi như là một mục tiêu quan trọng. Nhưng kết quả chưa mang lại là bao do cơ chế tập trung quan liêu phủ nhận nó trong các hoạt động cụ thể.
Trong hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, vấn đề chất lượng sản phẩm dần dần trở về đúng nghĩa của nó. Người tiêu dùng bắt đầu nhận thức được vấn đề chất lượng hàng hoá dịch vụ. Các nhà doanh nghiệp cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bắt đầu tìm tòi nghiên cứu những cơ chế mới về chất lượng cho thời kỳ tới. Chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh quyết định sự tồn tại, hưng vong của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung. Đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp là một yêu cầu khách quan góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, đóng góp vào việc nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Với hơn 47 năm phấn đấu xây dựng và trưởng thành, Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội bước sang cơ chế thị trường với muôn vàn khó khăn thử thách đã bước đầu đứng vững và đang trên đà phát triển. Trong tình hình sản xuất kinh doanh phức tạp hiện nay, Nhà máy còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa và nước ngoài mà nguyên nhân cốt lõi là chất lượng và giá thành chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Như vậy để nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy là một vấn đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn.
Vì những lý do trên, trong quá trình thực tập tại Nhà máy thiết bị bưu điện 61 Trần Phú Hà Nội, dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Trần Đình Chất em đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện”, làm chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận của vấn đề chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp công nghiệp trong cơ chế thị trường.
Phần II: Thực trạng về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện Hà Nội.
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy thiết bị bưu điện.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TRẦN ĐÌNH CHẤT đã tận tình hướng dẫn em và cháu xin cảm ơn các cô các chú công tác ở Nhà máy thiết bị bưu điện đã giúp đỡ cháu nhiều trong việc thu thập số liệu để hoàn thành đề tài này.
PHẦN THỨ NHẤT
CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG CÔNG NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP.
Trong cơ chế thị trường việc sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào thành công hay thất bại đều phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp đó. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề chất lượng sản phẩm hơn lúc nào hết được các doanh nghiệp quan tâm một cách nghiêm túc.Việc đưa chất lượng sản phẩm vào nghiên cứu như là một môn học chính đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển khoa học kinh tế ở nước ta.
1. Khái niệm chất lượng sản phẩm.
Hiện nay, theo tài liệu các nước trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng sản phẩm. Mỗi quan niệm khác nhau đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau và có những đóng góp nhất định thúc đẩy khoa học quản trị chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện. Tuỳ thuộc vào góc độ xem xét, quan niệm của mỗi nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định và nhằm mục tiêu khác nhau. người ta đưa ra nhiều khái niệm về chất lượng sản phẩm cũng khác nhau.
Chất lượng- theo quan điểm triết học – là một phần tồn tại cơ bản bên trong các sự vật hiện tượng. Theo Mác thì chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm đó và nó chính là chất lượng của sản phẩm.
Theo quan điểm của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây mà Liên Xô là đại diện thì chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính kinh tế - kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng những nhu cầu định trước cho nó những điều kiện xác định về kinh tế - kỹ thuật. Đây là một định nghĩa xuất phát từ quan điểm của các nhà sản xuất. Về mặt kinh tế, quan điểm này phản ánh đúng bản chất của sản phẩm. Qua đó dễ dàng đánh giá được mức độ chất lượng sản phẩm đạt được nhờ đó xác định được rõ ràng những đặc tính và chỉ tiêu nào cần hoàn thiện. Tuy nhiên, chất lượng sản phẩm chỉ được xem xét một cách biệt lập, tách rời với thị trường, làm cho chất lượng sản phẩm không thực sự gắn với nhu cầu và sự vận động biến đổi của nhu cầu trên thị trường, với hiệu quả kinh tế và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Khiếm khuyết này cũng dễ hiểu bởi vì cũng giống như nước ta, các nước XHCN sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch, sản phẩm sản xuất ra không đủ cung cấp cho thị trường nên không có sự so sánh, cạnh tranh về sản phẩm.
Từ đặc điểm về điều kiện kinh tế - xã hội đã dẫn đến cách hiểu chưa đầy đủ về chất lượng sản phẩm và đây cũng là một yếu tố kìm hãm nền kinh tế của các nước XHCN nói chung và nước ta nói riêng.
Bước sang cơ chế thị trường khi nhu cầu thị trường được coi là xuất phát điểm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì định nghĩa trên không còn phù hợp nữa. Quan điểm về chất lượng sản phẩm phải được nhìn nhận năng động thực tiễn và hiệu quả hơn. Tức là khi xem xét chất lượng sản phẩm phải gắn liền với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường, với chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp. Những quan niệm mới đó được gọi là quan niệm chất lượng sản phảm theo hướng khách hàng. Có rất nhiều tác giả theo quan niệm này, với nhiều cách diễn đạt khác nhau:
Crosby: Chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu hay đặc tính nhất định.
Feigenbaum: Chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật, công nghệ và vận hành của sản phẩm, nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm.
Juran: Chất lượng là sự phù hợp với sử dụng, với công dụng. Phần lớn các chuyên gia về chất lượng trong nền kinh tế thị trường coi chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với nhu cầu hay mục đích sử dụng của người tiêu dùng. Các đặc điểm kinh tế – kỹ thuật phản ánh chất lượng sản phẩm khi chúng thoả mãn được những đòi hỏi của người tiêu dùng. Chất lượng được nhìn từ bên ngoài, theo quan điểm của khách hàng. Chỉ có những đặc tính đáp ứng được nhu cầu của hàng hoá mới là chất lượng sản phẩm. Mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở để đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Theo quan niệm này chất lượng sản phẩm không phải là cao nhất và tốt nhất mà là sự phù hợp với nhu cầu.
Để phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên. tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đã đưa ra khái niệm: “ Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) có khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu hoặc tiềm ẩn ” (Theo ISO 8402:1994).
Dựa trên khái niệm này, cục đo lường chất lượng nhà nước Việt Nam đã đưa ra khái niệm: “Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp của tất cả các tính chất biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của xã hội trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, đảm bảo các yêu cầu của người sử dụng nhưng cũng đảm bảo các tiêu chuẩn thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước” (TCVN-5814-1994).
Về thực chất, đây là những khái niệm có sự kết hợp của những quan niệm trước đây và những quan niệm trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
Bởi vậy những quan niệm này được chấp nhận khá phổ biến và rộng rãI hiện nay.
Tuy nhiên quan niện chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển, bổ xung hơn nữa. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhưng không thể theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà luôn có giới hạn về kinh tế xã hội và công nghệ. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm chắc các loại chất lượng sản phẩm:
Chất lượng thiết kế: Là giá trị thể hiện bằng các tiêu chuẩn chất lượng được phác thảo bằng các văn bản, bản vẽ.
Chất lượng tiêu chuẩn: Là chất lượng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật của quốc gia, quốc tế, địa phương hoặc ngành.
Chất lượng thị trường: Là chất lượng bảo đảm thoả mãn những nhu cầu nhất định, mong đợi của người tiêu dùng.
Chất lượng thành phần: Là chất lượng đảm bảo thoả mãn những nhu cầu mong đợi của một hoặc số tầng lớp người nhất định.
Chất lượng phù hợp: Là chất lượng phù hợp với ý thích, sở trường, tâm lý người tiêu dùng.
Chất lượng tối ưu: Là giá trị các thuộc tính của sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu cầu của xã hội nhằm đạt được hiêụ quả kinh tế cao nhất.
2. Vai trò của chất lượng sản phẩm.
Cơ chế thị trường tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Đồng thời cũng đặt ra những thách thức đối với các doanh nghiệp.
Hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự chi phối của quy luật kinh tế, trong đó quy luật cạnh tranh chi phối một cách nghiệt ngã nhất, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm vững nhu cầu thị trường cả về mặt không gian, thời gian số lượng và chất lượng.
Thế mạnh của nền kinh thị trường là hàng hoá tràn ngập phong phú cạnh tranh lẫn nhau gay gắt người tiêu dùng được tự do lựa chọn các sản phẩm theo nhu cầu, sở thích, khả năng mua của họ. Họ thực sự là đối tượng mà các nhà sản xuất kinh doanh sẵn sàng và tận tình phục vụ.
Trong doanh nghiệp công nghiệp, chất lượng sản phẩm luôn luôn là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định cạnh tranh trên thị trường.
Chất lượng sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện chiến lược Marketing, mở rộng thị trường, tạo uy tín, danh tiếng cho sản phẩm của doanh nghiệp, khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường. Từ đó làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế, sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển sản xuất có năng suất - chất lượng mà còn được tạo thành bởi sự tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị và lao động trong quá trình sản xuất và sự tiết kiệm nhờ không lãng phí do không sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt. Nâng cao chất lượng chính là điều kiện để đạt được sự tiết kiệm đó nhờ tăng chất lượng sản phẩm dẫn đến tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào, giảm lượng nguyên vật liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên giảm những vấn đề về ô nhiễm môi trường. Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm chính là con đường ngắn nhất đem lại hiệu quả kinh tế.
Chất lượng sản phẩm được nâng cao giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận. Đây đồng thời là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chất lượng sản phẩm góp phần đẩy mạnh tiến độ sản xuất, tổ chức lao động, trong một doanh nghiệp nói riêng cũng như trên phạm vi quốc gia nói chung. Khi doanh nghiệp đã đạt được lợi nhuận thì có điều kiện để đảm bảo việc làm ổn định cho người lao động, tăng thu nhập cho họ làm cho họ tin tưởng gắn bó với doanh nghiệp, đóng góp hết mình để sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt giúp doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả hơn.
Chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo hướng dẫn và kích thích tiêu dùng. Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất thì chất lượng sản phẩm tốt sẽ đảm bảo cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, tăng năng xuất lao động.
Chất lượng sản phẩm không những làm tăng uy tín của nước ta trên thị trường quốc tế mà còn tạo điều kiện để tăng cường nguồn thu nhập ngoại tệ cho Đất nước.
3. Đặc điểm và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm.
3.1 Đặc điểm của chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội công nghệ tổng hợp, luôn luôn thay đổi theo không gian và thời gian, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể của từng thời kỳ.
Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt nội tại của bản thân sản phẩm. Những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm.
Nói tới chất lượng là phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn tới mức độ nào nhu cầu của khách hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra đối với mỗi sản phẩm, ở các nước tư bản qua phân tích thực tế chất lượng sản phẩm trong nhiều năm người ta đã đi đến kết luận rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20% phụ thuộc vào công tác kiểm tra, kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả nghiệm thu cuối cùng.
Chất lượng sản phẩm phải thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể về kinh tế – kỹ thuật của mỗi nước, mỗi vùng. Trong kinh doanh, không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp. Chất lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng. Nhiều khi chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc, tính truyền thống, thị hiếu tiêu dùng.
Chất lượng sản phẩm biểu hiện ở hai cấp độ và phản ánh hai mặt khách quan và chủ quan hay còn gọi là hai loại chất lượng:
Thứ nhất, chất lượng trong tuân thủ thiết kế, thể hiện ở mức độ chất lượng sản phẩm đạt được so với tiêu chuẩn thiết kế đề ra. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc tính kỹ thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượng sản phẩm càng cao được phản ánh thông qua các chỉ tiêu như tỷ lệ phế phẩm, sản phẩm hỏng loại bỏ, sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế. Loại chất lượng này phản ánh những đặc tính, bản chất khách quan của sản phẩm, do đó liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tranh về chi phí.
Thứ hai, chất lượng trong sự phù hợp hay còn gọi là chất lượng thiết kế. Nó phản ánh mức độ phù hợp của sản phẩm đối với nhu cầu của khách hàng. Chất lượng phụ thuộc vào mức độ phù hợp của sản phẩm thiết kế so với nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Mức độ phù hợp càng cao thì chất lượng càng cao. Loại chất lượng này phụ thuộc vào mong muốn và sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng, vì vậy nó tác động mạnh mẽ khả năng tiêu thụ sản phẩm.
3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm.
Khi nói tới chất lượng phải xem xét thông qua các chỉ tiêu đặc trưng mới khách quan và chính xác được. Mỗi sản phẩm được đặc trưng bởi các tính chất, đặc điểm là những đặc tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm đó. Mỗi tính chất được biểu thị bởi các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất định có thể đo lường đánh giá được. Vì vậy nói đến chất lượng sản phẩm phải đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể, Đặc điểm này khẳng định những quan điểm sai lầm cho rằng chất lượng sản phẩm là cái không thể đo lường, đánh giá được. Hệ thống chỉ tiêu đó bao gồm:
* Chỉ tiêu nội dung: đặc trưng cho các thuộc tính xác định chức năng chủ yếu mà sản phẩm phải thực hiện và quy định những việc sử dụng sản phẩm đó, trong đó chia thành:
- Chỉ tiêu phân loại: Chỉ rõ sản phẩm được xếp vào một nhóm nhất định nào đó.
- Chỉ tiêu chức năng: Đặc trưng cho hiệu quả sử dụng sản phẩm và tính tiên tiến của các giải pháp kỹ thuật đưa vào sản phẩm.
- Chỉ tiêu kích thước; kết cấu, thành phần cấu tạo: Đặc trưng cho các giải pháp thiết kế cơ bản, sự thuận tiện, khả năng tổ hợp hoá.
* Chỉ tiêu độ tin cậy: Đặc trưng cho tính chất của sản phẩm luôn giữ được khả năng làm việc trong một khoảng thời gian nhất định.
* Chỉ tiêu lao động học: Đặc trưng cho quan hệ giữa người và sản phẩm bao gồm các chỉ tiêu: vệ sinh, nhân chủng, sinh lý của con người liên quan đến quá trình sản xuất và sinh hoạt.
* Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức và sự hài hoà về kết cấu, sự hoàn thiện với sản xuất và độ ổn định của hàng hoá.
Chỉ tiêu công nghệ: Đặc trưng cho quá trình chế tạo, đảm bảo tiết kiệm lớn nhất các chi phí.
* Chỉ tiêu thống nhất hoá: Đặc trưng cho mức độ sử dụng trong sản phẩm, các bộ phận được tiêu chuẩn hoá, thống nhất hoá và mức độ thống nhất với các sản phẩm khác.
* Chỉ tiêu dễ vận chuyển: Đặc trưng cho sự thích ứng đối với việc vận chuyển, đặc trưng cho các công việc chuẩn bị và kết thúc liên quan đến vận chuyển, cụ thể là chi phí trung bình để vận chuyển một đơn vị sản phẩm.
* Chỉ tiêu an toàn: Đặc trưng cho tính đảm bảo an toàn cho người sản xuất và sử dụng.
* Chỉ tiêu về phát minh, sáng chế: Đặc trưng cho khả năng giữ bản quyền.
* Chỉ tiêu tuổi thọ: Đặc trưng cho thời gian sử dụng của sản phẩm.
* Chỉ tiêu về chi phí, giá cả: Đặc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo nên sản phẩm.
Các chỉ tiêu này không tồn tại độc lập, tách rời mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vai trò, ý nghĩa của từng chỉ tiêu rất khác nhau đối với mỗi sản phẩm khác nhau.
Mỗi loại sản phẩm cụ thể sẽ có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn những chỉ tiêu khác. Mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn và quyết định những chỉ tiêu quan trọng nhất làm cho sản phẩm của mình mang sắc thái riêng, phân biệt với những sản phẩm đồng loại trên thị trường. Hiện nay một sản phẩm được coi là có chất lượng cao ngoài các chỉ tiêu an toàn đối với người sử dụng và xã hội, môi trường ngày càng quan trọng, trở thành bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Đặc biệt những là sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đối với sức khoẻ và cuộc sống của con người.
Ngoài ra, để đánh giá, phân tích tình hình thực hiện chất lượng giữa các bộ phận, giữa các doanh nghiệp đối với hầu hết các loại sản phẩm ta còn có các chỉ tiêu so sánh như sau:
+ Tỷ lệ sai hỏng để phân tích tình hình sai hỏng trong sản xuất.
+ Dùng thước đo để tính, ta có công thức:
Tỷ lệ sai hỏng = x 100
+ Dùng thước đo giá trị để tính ta có công thức:
Tỷ lệ sai hỏng = x 100
Trong quản lý chất lượng sản phẩm người ta chủ yếu tính độ lệch chuẩn và tỷ lệ so đạt chất lượng sản phẩm:
Độ lệch chuẩn:
Xi : giá trị số mẫu
: giá trị trung bình
n : số mẫu lấy ra
Tỷ lệ sản phẩm = x 100
+ Tỷ lệ đạt chất lượng nói chung được tính theo công thức
Tỷ lệ đạt chất lượng = x 100
Để sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, phải đăng ký và được các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm Nhà nước ký duyệt. Tuỳ theo từng loại sản phẩm, từng điều kiện của doanh nghiệp mà xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm . Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phải đạt mức chất lượng đã đăng ký, đó là cơ sở kiểm tra, đánh giá, sản phẩm sản xuất.
II. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM:
Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Có thể chia thành hai nhóm chủ yếu:
1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp.
* Lực lượng lao động trong doanh nghiệp:
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng. Dù trình độ công nghệ hiện đại tới đâu nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động đến chất lượng, các hoạt động chất lượng sản phẩm và các hoạt động dịch vụ. Trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần hiệp tác phối hợp, khả năng thích ứng với sự thay đổi nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Quan tâm đầu tư phát triển và không ngừng nâng cao nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của các doanh nghiệp. Đó cũng là con đường quan trọng nhất nâng các khả năng cạnh tranh về chất lượng của mỗi q