Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Hà Nội

Sau giải phóng miền nam tháng 4/1975, mô hình XHCN đã được áp dụng trên phạm vi cả nước. Cơ chế bao cấp của nhà nước trong một thời gian dài đã kìn hãm sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Cho đến 1986, khi Đảng và Nhà nước quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các yếu tố thị trường mới có điều kiện hình thành và phát triển. Hiện nay, Việt Nam đang tiến gần tới hội nhập quốc tế một cách sâu sắc và đầy đủ về các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng Trong quá trình hội nhập, Việt Nam thu được những lợi ích to lớn, đồng thời cũng phải đối mặt với những thách thức gay gắt từ các đối thủ nước ngoài. Về lĩnh vực ngân hàng, khi mà Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực hoàn toàn, cũng như khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), thị trường tài chính được mở cửa, ngân hàng nước ngoài được hoạt động bình đẳng với các tổ chức trong nước thì tiềm năng về vốn, kinh nghiệm, công nghệ, đặc biệt là chất lượng và chủng loại về các dịch vụ ngân hàng hiện đại là những lợi thế vượt trội của ngân hàng nước ngoài so với các ngân hàng trong nước. Nhằm rút ngắn khoảng cách, tiến tới hội nhập với thế giới, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đẫ từng bước đổi mới, mở rộng và nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là phát triển các nghiệp vụ hiện đại như thẻ tín dụng, kinh doanh ngoại hối, hoán đổi lãi suất Về kinh doanh ngoại hối, từ chỗ nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại hối, chúng ta đã hình thành và phát triển một thị trường ngoại hối tương đối toàn diện, trong đó lấy thị trường ngoại tệ liện ngân hàng làm trung tâm, từng bước hoàn thiện và mở rộng kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ sẽ góp phần giúp các NHTM bắt kịp với tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới, thu hút khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh và bổ sung thu nhập cho ngân hàng. Nắm rõ tầm quan trọng và tiềm năng về kinh doanh ngoại tệ, NHNo&PTNT Hà Nội đã dần mở rộng và phát triển trong lĩnh vực kinh doanh này. Song hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng chỉ tiến hành một cách đơn giản, các loại hình giao dịch chưa phong phú. Thêm vào đó là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các NHTM trong nước và đặc biệt là các Ngân hàng nước ngoài buộc Ngân hàng phải tiến các biện pháp nghiệp vụ cần thiết. Trước tính cấp thiết của hoạt động kinh doanh ngoại tệ, kết hợp với quá trình học tập nghiên cứu thực tế, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Hà Nội” nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Hà Nội. Trong quá trình nghiên cứu, em đã sử dụng phương pháp phân tích kết hợp với những số liệu và tình hình thực tế tại NHNo&PTNT Hà Nội để góp ý kiến và đưa ra một số giải pháp nhằm đem lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng. Chuyên đề gồm 3 phần chính: Chương 1: Lý luận chung về kinh doanh ngoại hối tại NHTM. Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Hà Nội. Chương 3: Các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Hà Nội.

doc82 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Sau giải phóng miền nam tháng 4/1975, mô hình XHCN đã được áp dụng trên phạm vi cả nước. Cơ chế bao cấp của nhà nước trong một thời gian dài đã kìn hãm sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Cho đến 1986, khi Đảng và Nhà nước quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các yếu tố thị trường mới có điều kiện hình thành và phát triển. Hiện nay, Việt Nam đang tiến gần tới hội nhập quốc tế một cách sâu sắc và đầy đủ về các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng… Trong quá trình hội nhập, Việt Nam thu được những lợi ích to lớn, đồng thời cũng phải đối mặt với những thách thức gay gắt từ các đối thủ nước ngoài. Về lĩnh vực ngân hàng, khi mà Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực hoàn toàn, cũng như khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), thị trường tài chính được mở cửa, ngân hàng nước ngoài được hoạt động bình đẳng với các tổ chức trong nước… thì tiềm năng về vốn, kinh nghiệm, công nghệ, đặc biệt là chất lượng và chủng loại về các dịch vụ ngân hàng hiện đại là những lợi thế vượt trội của ngân hàng nước ngoài so với các ngân hàng trong nước. Nhằm rút ngắn khoảng cách, tiến tới hội nhập với thế giới, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đẫ từng bước đổi mới, mở rộng và nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là phát triển các nghiệp vụ hiện đại như thẻ tín dụng, kinh doanh ngoại hối, hoán đổi lãi suất… Về kinh doanh ngoại hối, từ chỗ nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại hối, chúng ta đã hình thành và phát triển một thị trường ngoại hối tương đối toàn diện, trong đó lấy thị trường ngoại tệ liện ngân hàng làm trung tâm, từng bước hoàn thiện và mở rộng kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ sẽ góp phần giúp các NHTM bắt kịp với tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới, thu hút khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh và bổ sung thu nhập cho ngân hàng. Nắm rõ tầm quan trọng và tiềm năng về kinh doanh ngoại tệ, NHNo&PTNT Hà Nội đã dần mở rộng và phát triển trong lĩnh vực kinh doanh này. Song hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng chỉ tiến hành một cách đơn giản, các loại hình giao dịch chưa phong phú. Thêm vào đó là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các NHTM trong nước và đặc biệt là các Ngân hàng nước ngoài buộc Ngân hàng phải tiến các biện pháp nghiệp vụ cần thiết. Trước tính cấp thiết của hoạt động kinh doanh ngoại tệ, kết hợp với quá trình học tập nghiên cứu thực tế, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Hà Nội” nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Hà Nội. Trong quá trình nghiên cứu, em đã sử dụng phương pháp phân tích kết hợp với những số liệu và tình hình thực tế tại NHNo&PTNT Hà Nội để góp ý kiến và đưa ra một số giải pháp nhằm đem lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng. Chuyên đề gồm 3 phần chính: Chương 1: Lý luận chung về kinh doanh ngoại hối tại NHTM. Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Hà Nội. Chương 3: Các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Hà Nội. Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI NHTM 1.1. Tổng quan về thị trường ngoại hối. 1.1.1. Khái niệm thị trường ngoại hối Chúng ta thấy rằng, một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa thương mại quốc tế và thương mại nội địa là: - Thương mại quốc tế thường liên quan đến việc chuyển đổi giữa các đồng tiền khác nhau. - Trong khi đó, thương mại nội địa chỉ liên quan đến nội tệ Một nhà nhập khẩu Mỹ thường được yêu cầu thanh toán cho nhà xuất khẩu Nhật bằng đồng yên Nhật, cho nhà xuất khẩu Đức bằng đồng EURO, cho nhà xuất khẩu Anh bằng đồng bảng Anh…Với lý do này, để thanh toán tiền hàng, nhà nhập khẩu Mỹ phải mua các ngoại tệ thích hợp và bán nội tệ. Giống như thương mại quốc tế, các hoạt động về du lịch quốc tế, đầu tư, tín dụng và các quan hệ tài chính quốc tế khác làm phát sinh nhu cầu mua bán các đồng tiền khác nhau trên thị trường. Hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau được diễn ra trên thị trường và thị trường này gọi là thị trường ngoại hối (The Foreign Exchage Market- FOREX). Một cách tổng quát: “Thị trường ngoại hối được định nghĩa như là bất cứ ở đâu diễn ra việc mua bán các đồng tiền khác nhau thì ở đó gọi là thị trường ngoại hối” Thị trường ngoại hối là nơi chuyên môn hoá giao dịch về ngoại tệ thông qua nghiệp vụ mua bán các loại ngoại tệ và chứng từ ngoại tệ nhằm thoả mãn các nhu cầu của các cá nhân, tổ chức kinh tế. 1.1.2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối 1.Thị trường ngoại hối không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý hữu hình nhất định, mà là ở bất cứ đâu diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau. 2. Đây là thị trường toàn cầu, bởi lẽ : Thời lượng giao dịch 24/24 giờ (trừ những ngày nghỉ) và hầu khắp mọi nơi đều diễn ra việc mua bán chuyển đổi các đồng tiền khác nhau. 3.Trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân hàng (Interbank) với các thành viên chủ yếu là các NHTM, các nhà môi giới, và các NHTW. Doanh số giao dịch trên Interbank chiếm 85% tổng doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu. 4. Các nhóm thành viên tham gia thi trường duy trì mối quan hệ với nhau thông qua điện thoại, telex, fax, mạng vi tính. 5. Do thị trường có tính chất toàn cầu và hoạt động hiệu quả nên các tỷ giá được yết trên các thị trường khác nhau nhưng hầu như là thống nhất với nhau (có độ chênh lệch không đáng kể). 6. Đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong giao dịch là USD, chiếm 41,5% trong tổng số các đồng tiền tham gia (nghĩa là có tới 83% các giao dịch trên FOREX là có mặt của USD). 7. Đây là thị trường rất nhạy cảm với các sự kiện chính trị, kinh tế xã hội, tâm lý…nhất là chính sách tiền tệ của các nước phát triển. 8. Những thị trường ngoại hối quan trọng nhất hiện nay là: London, NewYork, Tokyo, Singapore và Frankfurt. 9. Đối tượng mua bán trên thị trường ngoại hối chủ yếu là các đồng tiền quốc gia. 1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối. Cách đây chừng 4000 năm đã diễn ra bước ngoặt trong quan hệ thanh toán, đó là việc xuất hiện sử dụng những đồng tiền kim loại có gián tem của Ngân hàng, của nhà buôn, của nhà vua…trong thanh toán giữa các quốc gia. Những ngày đầu xuất hiện, giá trị của những đồng kim loại được xác định theo giá trị thực của kim loại làm nên chính đồng tiền đó. Tuy nhiên, khi khối lượng các động tiền trong lưu thông tăng lên theo nhu cầu thương mại, lòng tin của dân chúng và các giá trị của các đồng tiền với vai trò là phương tiện trao đổi tăng lên, thì bắt đầu xuất hiện những nhà đổi tiền chuyên nghiệp đầu tiên tại Trung Đông. Những nhà đổi tiền chuyên nghiệp đã có thể đổi một lượng tiền nhất định các đồng tiền này lấy một lượng tiền tương ứng các đồng tiền khác. Với sự phát triển ở dạng sơ khai này đã đánh dấu sự ra đời cuả việc kinh doanh ngoại hối và thị trường ngoại hối. Trong những năm đầu sau Đạị chiến Thế giới lần thứ nhất, thị trường ngoại hối trở nên vô cùng biến động và trở thành đối tượng đầu cơ có quy mô lớn. Sự đình chỉ chế độ bản vị vàng vào năm 1931 cùng với sự sụp đổ của các Ngân hàng và các vấn đề khó khăn trong thanh toán đối với một số đồng tiền đẫ trở thành những trở ngại đáng kể cho sự phát triển của thị trường ngoại hối. Giữa những năm 1930 các điều kiện hoạt động dần trở lại bình thường, Lon don đã trở thành trung tâm giao dịch lớn nhất trong thời kỳ giữa hai cuộc Đại chiến Thế giới. Bên cạnh đó, những trung tâm khác như: Paris, Zurich, Amsterdam, New York cũng mạnh mẽ. Sự tham gia của Chính phủ trên thị trường ngoại hối ngày càng rõ rệt vào các năm 1930 và càng trở nên thường xuyên hơn sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai và được duy trì cho đến ngày nay. Thời gian sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai được đánh dấu bằng sự ổn định của thị trường và sự kiểm soát chặt chẽ giá trị đồng tiền, tỷ giá của hầu hết các đồng tiền được neo cố định và chỉ được dao động trong một biên độ nhỏ. Thoả thuận Bretton Woods vào năm 1944 đẫ mang lại sự ổn định như mong muốn và một trật tự mới trên thị trường ngoại hối dần hình thành. Tỷ giá các đồng tiền chính đều được neo cố định với USD và giá trị của USD được neo cố định với vàng với tỷ lệ: 35 USD = 1 ounce. Hệ thống tỷ giá cố định bị sụp đổ vào năm 1971, nguyên nhân chính là do tồn tại mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân thanh toán giữa các quốc gia và càng ngày người nước ngoài nắm giữ USD càng nhiều. Sự nỗ lực nhằm hồi phục hệ thống này vào năm 1973 không thành đã mở đầu cho thời kỳ chế độ thả nổi và được duy trì cho đến nay. Trong những năm 1970, 1980 và đầu những năm 1990 chúng ta đẫ chứng kiến sự biến động không ngừng của thị trường ngoại hối và thị trường trở nên không dự đoán được. Một trong những lý do chính khiến thị trường biến động mạnh là do sự gia tăng đáng kể của các thành viên tham gia thị trường nhằm mục đích kiếm các cơ hội sinh lời khi tỷ giá biến động, đồng thời các nguồn lực về kỹ thuật và công nghệ sẵn có của các nhà kinh doanh, các nhà quản trị tài chính và các công ty bảo hiểm đã được cải tiến một cách cơ bản. 1.1.4. Chức năng của thị trường ngoại hối. Chức năng cơ bản của thị trường ngoại hối là kết quả phát triển tự nhiên của một trong những chức năng cơ bản của NHTM, đó là: - Nhằm giúp khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế. - Thị trường ngoại hối tạo ra công cụ phòng ngừa rủi ro, gắn liền với chức năng hoạt động của NHTM. Vì vậy thị trường ngoại hối giúp thoả mãn nhu cầu mua bán, trao đổi ngoại tệ nhằm bôi trơn cho các hoạt động xuất nhập khẩu và các hoạt động dịch vụ có liên quan đến ngoại tệ như du lịch, bảo hiểm… - Thị trưòng ngoại hối là phương tiên giúp luân chuyển các khoản đầu tư quốc tế, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính quốc tế khác cũng như sự giao lưu kinh tế giữa các quốc gia. - Thị trường ngoại hối là nơi thể hiện vai trò can thiệp của NHTW trong việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm ổn định đồng tiền trong nước. - Thông qua hoạt động của thị trường ngoại hối, mà sức mua đối với ngoại tệ được xác định một cách khách quan theo quy luật cung cầu của thị trường. 1.1.5. Các thành viên tham gia thị trường ngoại hối. 1.1.5.1.Nhóm khách hàng mua bán lẻ (Retail clients). Đối tượng này bao gồm các công ty nội địa, các công ty đa quốc gia, những nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm phục vụ cho hoạt động của chính mình.Ví dụ nhà nhập khẩu có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán vận đơn nhập khẩu ghi bằng ngoại tệ, nhà xuất khẩu có nhu cầu bán ngoại tệ khi nhận được vận đơn xuất khẩu ghi bằng ngoại tệ, khách du lịch bán ngoại tệ để lấy tiền chi tiêu…Như vậy nhóm khách hàng này có nhu cầu mua bán ngoại tệ để phục vụ cho hoạt động của chính mình chứ không nhằm mục đích kinh doanh ngoại hối (kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi). Thông thường nhóm khách hàng mua bán lẻ không giao dịch trực tiếp với nhau mà họ thường mua bán qua NHTM. 1.1.5.2. Các Ngân hàng thương mại (Commercial Banks) Các NHTM giữ vị trí trung tâm trong các hoạt động thị trường ngoại hối với tư cách là trung gian cho khách hàng của mình, những người giao dịch trên thị trường này hoặc một số giao dịch cho bản thân ngân hàng trong trường hợp trạng thái ngoại hối không có lợi. Các NHTM tiến hành giao dịch ngoại hối nhằm: - Cung cấp dịch vụ cho khách hàng mà chủ yếu là mua bán hộ cho nhóm khách hàng mua bán lẻ. - Giao dịch kinh doanh cho chính mình, tức mua bán ngoại hối nhằm kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi. Trong trường hợp mua bán hộ khách hàng, NHTM chỉ là người mua hộ và bán hộ cho nên không chịu rủi ro ngoại hối và những hoạt động mua bán hộ không làm thay đổi cơ cấu bảng tổng kết tài sản của ngân hàng. Thông qua cung cáp dịch vụ, NHTM thu một khoản phí. Trong trường hợp NHTM giao dich ngoại hối cho chính mình nhằm kiếm lãi kkhi tỷ giá thay đổi, NHTM phải chịu rủi ro khi tỷ giá thay đổi. Bên cạnh các nghiệp vụ ngoại hối phục vụ hoạt động thanh toán của khách hàng, hầu hết các NHTM còn thực hiện các hoạt động ngoại tệ liên hàng. Tức là các Ngân hàng trực tiếp mua bán với nhau bằng chính tài khoản riêng của ngân hàng 1.1.5.3. Những nhà môi giới ngoại hối. Những năm đầu thập kỷ 60, hoạt động trung gian của những nhà môi giới chỉ là những trường hợp ngoại lệ. Còn hiện nay, tại các nước đang phát triển, hoạt động này được các thành viên tham dự đánh giá là chiếm tới 50% tổng doanh số thương mại ngoại hối. Nguyên nhân của sự phát triển mạnh mẽ này là do sự dao động tỷ giá lớn từ những năm đầu thập kỷ 70 và đặc biệt từ thời kỳ chuyển sang cơ chế thả nổi về tỷ giá vào năm 1973 cũng như sự phát triển mạnh mẽ của thị trường ngoại hối. Các nhà môi giới tham gia vào thị trường ngoại hối với tư cách là những người tạo cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ. Họ hoạt động với các Ngân hàng trong và ngoài nước bằng phương tiện điện thoại và mạng vi tính. Phương thức giao dịch qua môi giới có ưu điểm ở chỗ: nhà môi giới thu thập hầu hết các lệnh đặt mua và lệnh đặt bán ngoại tệ từ các ngân hàng khác nhau, trên cơ sở đó cung cấp tỷ giá chào mua và tỷ giá chào bán cho khách hàng của mình một cách nhanh nhất với giá ưu việt nhất (gọi là giá tay trong- inside rate). Tuy nhiên giao dịch qua môi giới cũng có nhược điểm là: các ngân hàng phải trả cho nhà môi giới một khoản phí (gọi là brokerage fee). Những ai muốn hành nghề môi giới ngoại hối phải có giấy phép. Điểm lưu ý là những nhà môi giới chỉ cung cấp dịch vụ cho khách hàng chứ không mua bán ngoại hối cho chính mình. 1.1.5.4. Các Ngân hàng Trung ương. NHTW tham gia trên thị trường ngoại hối với tư cách là người điều tiết thị trường, ổn định giá cả trong nước thông qua tỷ giá và lãi suất. Trong chế độ tỷ giá thả nổi có điều chỉnh thì NHTW cũng phải tham gia mua bán ngoại tệ để ổn định tỷ giá. Trên thị trường ngoại hối, NHTW đóng vai trò kép: NH mua và bán ngoại tệ, một mặt để cân bằng cung và cầu thị trường, mặt khác nhằm tác động vào tỷ giá hối đoái. NHTW tiến hành giao dịch ngoại tệ như NHTM để thực hiện việc thâu tóm ngoại tệ cũng như các nghiệp vụ ngoại hối khác: truy đòi hối phiếu nước ngoài, các sec nước ngoài, các nghiệp vụ tín dụng… NHTW còn là ngân hàng phục vụ Nhà nước trong việc thực hiện các hoạt động thanh toán của Chính phủ (với các tổ chức quốc tế, phục vụ các hoạt động tài trợ…), khác với NHTM, NHTW về nguyên tắc không tham dự vào kinh doanh ngoại hốivới các doanh nghiệp kinh tế. Nhìn chung, các NHTW không thờ ơ trước sự biến động của tỷ giá đối với đồng tiền mà mình phát hành. Mặc dù hầu hết các đồng tiền của các nước phát triển được thả nổi từ năm 1973 nhưng trên thực tế, các NHTW vẫn can thiệp bằng cách mua vào hay bán ra nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá theo hướng mà NHTW cho là có lợi nhất cho nền kinh tế. 1.2. Tỷ giá và các giao dịch ngoại hối. 1.2.1. Tỷ giá. 1.2.1.1. Khái niệm tỷ giá. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng của mình. Thương mại, đầu tư và các quan hệ tài chính quốc tế…đòi hỏi các quốc gia phải thanh toán với nhau. Thanh toán giứa các quốc gia dẫn đến việc trao đổi các đồng tiền khác nhau, đồng tiền này đổi lấy đồng tiền kia. Hai đồng tiền được trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ này được gọi là tỷ giá. Vậy tỷ giá chính là tỷ lệ trao đổi giữa các đồng tiền với nhau, hay nói cách khác tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác. VD: 1USD = 1,8125 DEM Trong ví dụ này, giá của USD được biểu thị thông qua DEM, nghĩa là 1USD có giá là 1,8125 DEM. Trong thực tế, do hầu hết các quốc gia đều sử dụng phương pháp yết tỷ giá trực tiếp cho nên tỷ giá còn được định nghĩa: Tỷ giá lá số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ. 1.2.1.2. Các loại tỷ giá. a/ Tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra. Tỷ giá mua vào là tỷ giá tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng mua vào đồng tiền yết giá. Tỷ giá bán ra là tỷ giá tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng bán ra đồng tiền yết giá. Tỷ giá mua vào là tỷ giá đứng trước và luôn thấp hơn tỷ giá bán ra. b/ Tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn. Tỷ giá giao ngay (Sport Exchange Rate): Là tỷ giá được thoả thuận ngày hôm nay để thực hiện thanh toán xảy ra chậm nhất là vào ngày thứ hai sau ngày ký kết hợp đồng. Tỷ giá kỳ hạn (Forward Exchang Rate): Là tỷ giá được thoả thuận ngày hôm nay nhưng việc thanh toán xảy ra chậm nhất là sau đó từ ba ngày làm việc trở lên. c/ Tỷ giá chéo (Cross Rate). Là tỷ giá của hai đồng tiền được xác định thông qua đồng tiền trung gian thứ ba. Thông thường, đòng tiền trung gian thứ ba thường là đôla Mỹ, vì đại bộ phận trên thị trường các nước đồng nội tệ của các nước này yết theo đồng đôla, chính nó tạo ra tỷ giá cung cầu. Do đó rất dễ dàng khi xác định tỷ giá của hai đồng tiền còn lại. d/ Tỷ giá mở cửa và tỷ giá đóng cửa. Tỷ giá mở cửa là tỷ giá áp dụng cho hợp đồng đầu tiên giao dịch trong ngày. Tỷ giá đóng cửa là tỷ giá áp dụng cho giao dịch cuối ngày làm việc. Tỷ giá đóng cửa là một chỉ tiêu chủ yếu về tình hình biến động tỷ giá trong ngày. Cần chú ý là tỷ giá đóng cửa ngày hôm nay không nhất thiết phải là tỷ giá mở cửa ngày hôm sau. e/ Tỷ giá chính thức (Official Exchang Rate). Là tỷ giá được xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường và được NHTW công bố hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. f/ Tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi. Tỷ giá cố định là tỷ giá do NHTW công bố cố định không thay đổi. Tỷ giá thả nổi là tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, NHTW không bắt buộc phải can thiệp. g/ Tỷ giá chợ đen. Là tỷ giá được hình thành bên ngoài hệ thống ngân hàng, do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. 1.2.1.3. Các phương pháp yết giá. Khác với yết giá hàng hoá thông thường, yết một tỷ giá bao giờ cũng có hai đồng tiền tham gia, trong đó: một đồng tiền đóng vai trò là đồng yết giá, còn đồng tiền kia đóng vai trò là đồng tiền định giá. VD: 1USD = 1,7520 DEM Trong đó: - USD đóng vai trò là đồng tiền yết giá và là 1 đơn vị - DEM đóng vai trò là đồng tiền định giá và là một số đơn vị tiền tệ nhất định. Số đơn vị tiền tệ này thay đổi theo quan hệ cung cầu giữa USD và DEM trên thị trường ngoại hối. Trong thực tế có 2 cách yết giá đó là yết giá trực tiếp và yết giá gián tiếp - Yết giá trực tiếp (direct quotation): là phương pháp yết tỷ giá sao cho giá của một đơn vị ngoại tệ được yết trực tiếp thông qua nội tệ. - Yết giá gián tiếp (indirect quotation): là cách yết tỷ giá sao cho giá của một đơn vị ngoại tệ được yết gián tiếp thông qua nội tệ. VD: 1000 VND = 0,07185 USD Theo tập quán kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng, tỷ giá hối đoái được yết như sau: DEM/ USD = 1,4125/ 35 VND/USD = 15408/ 12 Đồng DEM và VND đứng trước gọi là đồng tiền định giá, đồng USD đứng sau gọi là đồng tiền yết giá. Tỷ giá đứng trước là tỷ giá mua vào, tỷ giá đứng sau gọi là tỷ giá bán ra của ngân hàng. Tỷ giá bán ra bao giờ cũng lớn hơn tỷ giá mua vào.Chênh lệch giữa chúng gọi là SPREAD. 1.2.2. Các giao dịch trên thị trường ngoại hối. 1.2.2.1. Giao dịch ngoại hối giao ngay( Sport). Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối giao ngay là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà việc chuyển giao ngoại tệ và thanh toán được thực hiện ngay hoặc chậm nhất là sau hai ngày làm việc kể từ khi hợp đồng mua bán được ký kết. Nghiệp vụ này được thực hiện trên cơ sở tỷ giá giao ngay- tỷ giá được xác định là có giá trị từ thời điểm giao dịch. Khối lượng giao dịch hàng ngày là nhiều nhất, ước tính khoảng 48% toàn bộ giao dịch trên thị trường ngoại hối. Phần lớn các nghiệp vụ mua bán giao ngay (khoảng 90%) được tiến hành giữa các ngân hàng, phần còn lại được thực hiện theo yêu cầu của khách hàng. Ngoài chức năng dịch vụ của NHTM đối với khách hàng thì các ngân hàng này cũng tự kinh doanh cho mình thông qua nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỷ giá. Căn cứ vào các tỷ giá trên các thị trường khác nhau, ngân hàng có thể thực hiện bằng cách mua đồng tiền ở nơi có giá thấp, bán đồng tiền ở nơi có giá cao. Chênh lệch tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra là khoản lợi nhuận mà ngân hàng thu được. Thị trường giao ngay được biết đến như là thị trường rất sôi động, giao dịch với khối lượng
Tài liệu liên quan