Sau khi mới giành lại độc lập , thống nhất đất nước, với cơsởvật chất hết
sức tồi tàn cộng với một nền kinh tếhầu nhưkiệt quệsau chiến tranh , Việt Nam
lúc đó là một trong những nước nghèo nhất trên thếgiới. Nhưng dưới sựlãnh
đạo tàI tình của Đảng và Nhà nước với phương châm “ toàn Đảng , toàn dân
cùng nhau xây dựng đất nước “ cho dến nay đất nước ta hiện đang vươn lên
mạnh mẽvà là một trong sốnhiều nước có tốc độphát triển cao trên thếgiới. Để
có thể đạt đươc thành tựu to lớn đó, công tác huy động nguồn vốn chính là một
trong những nhiệm vụbức thiết được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, nhưng chúng ta vẫn
không thểphủnhận rằng vẫn còn rất nhiều nguồn vốn mà chúng ta chưa khai
thác hết (đặc biệt là nguồn vốn trong dân cưvà nguồn vốn ngoài nước) trong
khi nền kinh tếcủa đất nước lại đang rất cần vốn. Chính vì vậy , nhiệm vụcủa
các trung gian tài chính đặc biệt là các Ngân hàng ngày càng trởnên quan trọng.
Do đó các ngân hàng cần có những chính sách phù hợp đểtăng cường khảnăng
huy động vốn nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của nền kinh tế.
Xuất phát từnhững nhận thức trên kết hợp với quá trình thực tập tại chi
nhánh Ngân hàng đầu tưvà phát triển –Bắc Hà Nội nên em mạnh dạn chọn đề
tài “Một sốgiải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân
hàng Đầu tưvà Phát triển Việt Nam - Bắc Hà Nội “ làm chuyên dềtốt nghiệp.
Đềtài tập trung vào nghiên cứu các nghiệp vụhuy động vốn NHTM trong
nền kinh tếthịtrường; nghiên cứu thực trạng huy động tại chi nhánh Ngân hàng Đầu
tưvà Phát triển Việt Nam -Bắc Hà Nội. Qua đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị.
Bốcục: Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên đểgồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đềcơbản vềhuy động vốn tại NHTM.
Chương II: Thực trạng huy động vốn tại chinh nhánh Ngân hàng Đầu tưvà
Phát triển Việt Nam –Băc’ Ha` Nội
Chương III: Một sốgiải pháp và kiến nghịnhằm tăng cường huy động vốn tại
chi nhánh Ngân hàng Đầu tưvà Phát triển Việt Nam - Bắc Hà Nội trong thời gian tới.
Chuyên đềtốt nghiệp
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế, chuyên đềkhông thểtránh khỏi
những thiếu sót. Với ý thức cầu tiến, em rất mong nhận được sựgóp ý chân
thành của thầy cô và các bạn.
Em cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo Lê Đức Lữ đã hết sức tận tình
giúp đỡem trong quá trình chọn và hoàn thiện đềtài này. Đồng thời em cũng xin
gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh chịtrong phòng kếhoạch nguồn vốn nói
riêng và toàn thểcán bộtrong chi nhánh Ngân hàng đầu tưvà phát triển -Bắc Hà
Nội nói chung đã hết sức giúp đỡem trong quá trính thực tập tại đơn vị
60 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Bắc Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi mới giành lại độc lập , thống nhất đất nước, với cơ sở vật chất hết
sức tồi tàn cộng với một nền kinh tế hầu như kiệt quệ sau chiến tranh , Việt Nam
lúc đó là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Nhưng dưới sự lãnh
đạo tàI tình của Đảng và Nhà nước với phương châm “ toàn Đảng , toàn dân
cùng nhau xây dựng đất nước “ cho dến nay đất nước ta hiện đang vươn lên
mạnh mẽ và là một trong số nhiều nước có tốc độ phát triển cao trên thế giới. Để
có thể đạt đươc thành tựu to lớn đó, công tác huy động nguồn vốn chính là một
trong những nhiệm vụ bức thiết được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, nhưng chúng ta vẫn
không thể phủ nhận rằng vẫn còn rất nhiều nguồn vốn mà chúng ta chưa khai
thác hết (đặc biệt là nguồn vốn trong dân cư và nguồn vốn ngoài nước) trong
khi nền kinh tế của đất nước lại đang rất cần vốn. Chính vì vậy , nhiệm vụ của
các trung gian tài chính đặc biệt là các Ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng.
Do đó các ngân hàng cần có những chính sách phù hợp để tăng cường khả năng
huy động vốn nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của nền kinh tế.
Xuất phát từ những nhận thức trên kết hợp với quá trình thực tập tại chi
nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển –Bắc Hà Nội nên em mạnh dạn chọn đề
tài “Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Bắc Hà Nội “ làm chuyên dề tốt nghiệp .
Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nghiệp vụ huy động vốn NHTM trong
nền kinh tế thị trường; nghiên cứu thực trạng huy động tại chi nhánh Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam -Bắc Hà Nội. Qua đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị.
Bố cục: Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên để gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn tại NHTM.
Chương II: Thực trạng huy động vốn tại chinh nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam –Băc’ Ha` Nội
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động vốn tại
chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Bắc Hà Nội trong thời gian tới.
Chuyên đề tốt nghiệp
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế, chuyên đề không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Với ý thức cầu tiến, em rất mong nhận được sự góp ý chân
thành của thầy cô và các bạn.
Em cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo Lê Đức Lữ đã hết sức tận tình
giúp đỡ em trong quá trình chọn và hoàn thiện đề tài này. Đồng thời em cũng xin
gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh chị trong phòng kế hoạch nguồn vốn nói
riêng và toàn thể cán bộ trong chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển -Bắc Hà
Nội nói chung đã hết sức giúp đỡ em trong quá trính thực tập tại đơn vị.
Em xin chân thánh cảm ơn !
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
I- HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ( NHTM)
1- Khái niệm và đặc điểm hoạt động NHTM
1.1- Khái niệm
Khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một trình độ nhất định, lưu
thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ đã được mở rộng thì trong nền kinh tế cũng
đồng thời xuất hiện những người nắm giữ một khoản tiền tạm thời không dùng
đến và những người cần tiền trong một khoảng thời gian nhất định để kinh
doanh. Trước tình hình đó, vào nửa cuối thế kỷ 16 ở Châu Âu đã ra đời một số
Ngân hàng đầu tiên mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi chuyển hoá
thành. Lúc này hoạt động của Ngân hàng mới chỉ là nhận giữ hộ tiền và cho vay.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM
cững từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa
năng. ở Việt Nam, theo Luật các Tổ chức Tín dụng, nhà lập pháp định nghĩa
rằng “ Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.2- Đặc điểm của hoạt động NHTM
Căn cứ vào khái niệm trên thì hoạt động của NHTM có thể được nhận dạng
thông qua một số đặc điểm sau:
* Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm
lời ( bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng).
Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động
vốn dưới các hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu
về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ Ngân hàng được
Chuyên đề tốt nghiệp
biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và
chứng khoán để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong
một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách
hàng chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng.
* Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều
kiện, nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do
pháp luật quy định ( vốn pháp định, phương án kinh doanh,...) thì mới được
phép hoạt động trên thị trường.
Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn
nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc,
mang tính chất dây truyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong
hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM
phải tiến hành huy động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và
trên nguyên tắc NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất
định, nên đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là
sự rủi ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì
vậy, hoạt động Ngân hàng ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế gới thường được
điều chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm
đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế
thị trường.
2- Các hoạt động chủ yếu của NHTM
Hoạt động và vai trò của NHTM không phải là bất biến, mà liên tục phát
triển theo điều kiện kinh tế xã hội. Ngày nay, hoạt động của NHTM rất phong
phú và đa dạng, tuỳ điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi
quốc gia mà các nghiệp vụ kinh doanh của các NHTM có thể khác nhau về
phạm vi và công nghệ.
Chuyên đề tốt nghiệp
Nếu căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của NHTM thì hoạt động của NHTM
bao gồm: Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản và Các hoạt động ngoài
bảng tổng kết tài sản.
Bảng tổng kết tài sản của NHTM
Tài sản
( Tính lỏng giảm dần)
Nguồn vốn
- Dự trữ
- Các chứng khoán
- Cho vay
- Tài sản khác
- Tiền gửi
- Tiền vay
- Vốn của ngân hàng
- Nguồn vốn khác
2.1- Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản:
Bảng tổng kết tài sản của NHTM phản ánh ba lĩnh vực nghiệp vụ cơ bản là:
Huy động vốn, Sử dụng vốn và Nghiệp vụ môi giới trung gian.
2.1.1- Huy động vốn
Đây là nghiệp vụ khởi đầu, tạo điều kiện cho mọi hoạt động của NHTM.
Khi một NHTM cần vốn cho hoạt động kinh doanh của mình thì có thể huy
động ở một số nguồn chính như : Nguồn từ chủ sở hữu, Nguồn tiền gửi, Nguồn
vay mượn và một số nguồn khác.
* Huy động từ chủ sở hữu:
Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các
chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình
kinh doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn
định cao, NHTM không phải hoàn lại. Nó có vai trò quan trọng trong việc tài trợ
cho các hoạt động mở rộng quy mô của các NHTM ( liên doanh, liên kết, mở
Chuyên đề tốt nghiệp
rộng mạng lưới,...). Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp
vụ phát hành cổ phiếu, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp
phát của Ngân sách Nhà nước,... Nhìn chung việc huy động dưới hình thức nào
là do tính chất sở hữu của NHTM quyết định.
* Huy động từ tiền gửi:
Nguồn vốn từ chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử
dụng trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy phần lớn là NHTM phải huy động từ
nguồn tiền gửi. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là NHTM chỉ được quyền
sử dụng nó trong một thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó thuộc về những
người gửi tiền. Dựa vào tính khả dụng của vốn thì NHTM có thể huy động dưới
các hình thức sau:
-Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi hoàn toàn theo mục đích khả dụng.
Mục đích của khách là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng. NHTM
có nhiệm vụ phải chi trả bất cứ lúc nào mà khách hàng yêu cầu.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự tham thoả thuận về thời gian rút
tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này ngân hàng có quyền chủ
động sử dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước
hạn phải được sự đồng ý của ngân hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là một bộ phận thu thập bằng tiền của các cá nhân
tạm thời nhàn rỗi được gửi vào NHTM dưới nhiều hình thức: Tiết kiệm không
kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm mua nhà,... Với mục đích chủ yếu là tiết
kiệm và sinh lời.
* Nguồn vay mượn:
Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay
vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách
hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng trung ương, ở
các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài,... Vốn đi
vay thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên,
Chuyên đề tốt nghiệp
nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động
kinh doanh một cách bình thường.
* Huy động từ các nguồn khác: Ngoài một số nguồn cơ bản trên thì NHTM
có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục
vụ,... uy tín của NHTM là cơ sở quan trọng để mở rộng nguồn vốn này.
2.1.2 Sử dụng vốn:
Huy động được vốn nhàn rỗi, NHTM phải cân nhắc để hiệu quả hoá những
nguồn vốn huy động được. Với mục tiêu chủ yếu là an toàn và sinh lời, hoạt
động sử dụng vốn của NHTM tập trung ở ba nghiệp vụ chính: Dự trữ, Cho vay
và Đầu tư.
* Dự trữ:
Sự trữ là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp
ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn ( bằng
tiền mặt) để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc
vào qui mô hoạt động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển khoản,
thời vụ của các khoản chi trả tiền mặt.
Tiền dự trữ bao gồm: Dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư. Chúng được
hình thành bởi các nguồn: Tiền mặt tại két của NHTM, Tiền gửi tại Ngân hàng
trung ương, Tiền gửi ở các tổ chức tín dụng, Tiền đang trong quá trình thu.
* Cho vay:
Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Nguồn thu từ
hoạt động cho vay thường chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân
hàng. Tuy nhhiên, nó cũng là lĩnh vực có nhiều rủi ro và phức tạp nhất.Rủi ro tín
dụng có thể do ý muốn chủ quan của ngân hàng như : Xây dựng chiến lược sai,
Thẩm định hồ sơ không chính xác, Cho vay không tuân theo nguyên tắc,... cũng
có thể do nguyên nhân khách quan như: Hoả hoạn, lũ lụt,... Hoạt động cho vay
liên quan chặt chẽ với tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế từ tiêu dùng đến sản
Chuyên đề tốt nghiệp
xuất kinh doanh. Do vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ cho
vay ngày càng đa dạng nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, tạo điều
kiện tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Các hình thức cho vay chủ yếu như: Cho vay
ngắn hạn, Cho vay trung và dài hạn, Cho vay có đảm bảo,...
* Đầu tư:
Hoạt động này bao gồm đầu tư chứng khoán và các hoạt động đầu tư
khác:
- Đầu tư chứng khoán: Nghiệp vụ này mang lại cho NHTM một khoản lợi
nhuận tương đối lớn ( sau cho vay). Trong trường hợp chưa tìm ra khách hàng
đáng tin cậy để cho vay thì đầu tư chứng khoán là nơi giải quyết vốn một cách
hữu hiệu nhất cho NHTM. Tuy nhiên, nó cũng chứa nhiều rủi ro. Vì vậy NHTM
cần phân tích kỹ lưỡng trước khi lựa chọn loại chứng khoán nào để đầu tư.
- Ngoài ra, NHTM có thể đầu tư nhằm mục đích sinh lợi bằng nhiều hình
thức khác như góp vốn liên doanh, đầu tư vào trang thiết bị,...
2.1.3-Hoạt động môi giới trung gian
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển
theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện các hoạt
động trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các NHTM những khoản thu
nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là các dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp NHTM
phát triển toàn diện. ở các nước phát triển, các NHTM cạnh tranh với nhau bằng
con đường “ phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho
khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển thể hiện xã hội công bằng văn
minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận của NHTM không chỉ ở đầu
tư, cho vay, mà gần phần nửa ở các dịch vụ, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.
Nghiệp vụ trung gian của NHTM rất đa dạng và phong phú như : Dịch vụ
chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác, Dịch vụ chuyển khoản,
Dịch vụ khấu trừ tự động, Thu chi hộ,... Qua đó NHTM sẽ thu được một khoản
phí dịch vụ.
Chuyên đề tốt nghiệp
2.2- Các hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản:
Ngoài các giao dịch được phản ánh trong nội bảng ( huy động vốn, sử dụng
vốn, môi giới trung gian), các NHTM còn tham gia vào hoạt động chưa được
thừa nhận là tài sản nợ hoặc tài sản có. Các hoạt động này hiện đang được theo
dõi ở các tài khoản ngoại bảng. Một số hoạt động ngoại bảng chủ yếu như: Bảo
lãnh công nợ, các hợp đồng có liên quan đến lãi suất, các giao dịch về hối đoái
như giao dịch Swaps, Options, Futrues, các chứng từ có giá,... Mặc dù sự biến
động của các giao dịch ngoại bảng không làm thay đổi kết cấu, cân số của bảng
tổng kết tài sản, nhưng vì nó cũng là một hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá
tình kinh doanh nên độ rủi ro của nó cũng tác động mạnh mẽ đến độ an toàn của
NHTM.
Do đó, khi phân tích hoạt động của NHTM, bên cạnh việc nghiên cứu các
hoạt động bảng tổng kết tài sản, các nhà quản trị cần phải quan tâm đến mức độ
và diễn biến các hoạt động ngoại bảng vì độ rủi ro của các hoạt động này cũng
làm ảnh hưởng không ít đến kết quả kinh doanh chung của NHTM.
Tóm lại, hoạt động của NHTM luôn gắn liền với nền kinh tế, nền kinh tế
càng phát triển cao, hoạt động của NHTM càng đa dạng và phong phú. Hơn nữa,
các hoạt động của NHTM có mối quan hệ rất chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành
một chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
II- CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề xuyên suất cho quá tình hình
thành và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và
sinh lời trong kinh doanh. Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm
bảo cho sự phát triển bền vững của ngân hàng là điều rất cần thiết. Mỗi Ngân
hàng hoạt động trong một môi trường, điều kiện cụ thể sẽ có các nghiệp vụ huy
động vốn n khác nhau. Song nhìn chung các NHTM thường áp dụng một số
nghiệp vụ cơ bản sau:
Chuyên đề tốt nghiệp
1- Huy động từ chủ sở hữu:
Nguồn huy động từ chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự có và một số quỹ
mang tính chất đặc thù của mỗi quốc gia ( như Quỹ đầu tư phát triển do Chính
phủ cấp cho một số NHTM quốc doanh ở Việt Nam).
Vốn tự có của NHTM cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trong phạm vi bài viết này chúng ta chỉ xem xét dưới các hình thức như: Vốn
pháp định, vốn điều lệ và các quỹ.
Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép
khai trương Ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. ở Việt Nam, để
thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của
NHNN. Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu
của ngân hàng quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như
sau: Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do Ngân sách Nhà
nước cấp 100% vốn ban đầu; Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng
góp của cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu; Nếu là NHTM liên doanh,
vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của ngân hàng tham gia liên doanh.
Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều
lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài
chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy
mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng đó ( vốn điều lệ bao hàm cả vốn pháp
định).
Ngoài ra vốn tự có củaNHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng ( đây là
các quỹ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng)
như: Quỹ bảo toàn vốn, Quỹ phúc lợi, Quỹ khấu hao tài sản cố định,...
Nguồn vốn tự có của NHTM thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của một ngân hàng, nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng, vì nó cho thấy
thực lực, quy mô của ngân hàng, nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là
Chuyên đề tốt nghiệp
vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Hơn nữa nguồn vốn
này có tính ổn định cao, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tài trợ cho các
tài sản cố định của NHTM, tài trợ cho hoạt động liên doanh liên kết, mở rộng
mạng lới, hay để chống rủi ro,...; Qua đó nhằm hướng tới mở rộng quy mô hoạt
động của ngân hàng.
Theo đà phát triển, nguồn vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối
thông qua các nghiệp vụ của mỗi NHTM có thể áp dụng như sau:
- Tăng cường và bổ sung thêm vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn
từ các cổ đông, phát hành cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu,...
Các nghiệp vụ huy động này thường được các NHTM cổ phần áp dụng. Tuy
nhiên, việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu
sẽ gây áp lực đối với các cổ đông cũ của ngân hàng, việc tăng thêm cổ phần sẽ
kéo theo sự suy giảm tương đối về cổ tức đối với các cổ đông.
- Đối với NHTM quốc doanh hay NHTM liên doanh thì có thể tăng thêm
vốn tự có thông qua sự cấp thêm vốn của Chính phủ hay đóng góp thêm vốn của
các bên liên doanh.
- Ngoài ra, nguồn vốn tự có của NHTM còn được bổ sung thêm từ kết quả
hoạt động kinh doanh của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ dự trữ và
một số quỹ khác.
Bên cạnh nguồn vốn tự có, ở một số quốc gia mà cụ thể là ở Việt Nam, một
số NHTM như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam còn được Chính phủ cấp vốn dưới hình thức quỹ
đầu tư phát triển để cho vay lại theo kế hoạch Nhà nước chỉ định. Nguồn này có
tính ổn định tương đối cao, trong thời gian ngắn Nhà nước chưa yêu cầu Ngân
hàng trả gốc và lãi cho khoản tiền này mà Ngân hàng chỉ phải trích lập quỹ để
bảo toàn nguồn vốn theo quy định. Uy tín và hiệu quả trong kinh doanh của
Ngân hàng chính là cơ sở để thu hút nguồn vốn ổn định này.
Chuyên đề tốt nghiệp
Tóm lại, nguồn vốn huy động từ chủ sở hữu là nguồn vốn đóng vai trò nền
tảng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng không
lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM nhưng có ý nghĩa quyết định tới sự hình
thành và phát triển của ngân hàng; mặc dù công tác huy động không thuận lợi,
phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh củ ngân hàng nhưng việc tăng cường
mở rộng nguồn vốn này một cách hợp lý là rất quan trọng đối với tất cả các
NHTM.
2- Huy động tiền gửi
ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu
là số tiền của khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. gửi
là. Trên phương diện chủ thể gửi tiền thì tiền gửi có thể được chia thành hai loại:
Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm
của dân cư.
2.1-Tiền gửi giao dịch (tiền gửi thanh toán)
Một trong những dịch vụ lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền
gửi để thanh toán hộ khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải
thanh toán ngay lập tức một lệnh rút tiền cho một cá