Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học – kỹ thuật, bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học- cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo quy luật sinh học nhất định con người không thể ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng , mà phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn cac quy luật để có những giải pháp tác động thích hợp với chúng.
Việt Nam đang trên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã lựa chọn nông nghiệp là xuất phát điểm, là “kim chỉ nan “ bởi vì từ xa xưa người dân nước Việt đã biết tận dụng những tiềm năng, nguồn lực sẵn có để phát triển kinh tế, để tự nuôi sống bản thân và gia đình.
Trong các ngành kinh tế nông nghiệp, thuỷ sản là ngành còn có nhiều khả năng và tiềm năng chưa được huy động để phát triển. Với 3260 km bờ biển , 12 đầm phá và các eo vịnh, 112 cửa sông, lạch , hàng ngàn đảo lớn nhỏ ven biển. Trong nội địa hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và các hồ thuỷ lợi, thuỷ điện, đã tạo cho nước ta tiềm năng to lớn về mặt nước, nguồn lợi giống loài thuỷ sản phông phú và nguồn lực lao động dồi dào , thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Hơn nữa, hàng năm vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho phép khai thác khoảng 1.669.000 tấn hải sản các loại. Ngoai ra, có thể khai thác hàng trăm nghìn tấn nhuyễn thể vỏ cứng (như nghêu, sò, điệp, ốc ) và rong tảo, các loại đặc sản quí hiếm khác .
Cùng với dân số thế giới tiếp tục gia tăng và sự phát triển kinh tế, nâng cao sức sống của cộng đồng khiến cho nhu cầu đối với nhiều loại sản phẩm thuỷ sản mà Việt Nam có khả năng sản xuất đang và sẽ còn tăng mạnh. Quan hệ cung – cầu trên thị trường thuỷ sản thế giới ngày càng thể hiện rõ sự thiếu hụt nguồn cung cấp. Thế giới đang chuyển sang sử dụng ngày càng nhiều hải sản. Nhu cầu sản phẩm đang phát triển mạnh theo hai hướng: sản phẩm giá trị gia tăng, sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ và các loại thuỷ sản tươi sống.
Bởi vì các hoạt động khuyến khích, hướng dẫn người dân tham gia nuôi trồng những hiểu biết về kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản còn nhiều hạn chế nên công tác Khuyến ngư trong giai đoạn hiên nay là rất cần thiết. Vì thế tôi đã lựa chọn đề tài một số giải pháp phát triển công tác Khuyến ngư tại công ty TNHH dịch vụ Khuyến ngư Trung ương làm chuyên để thực tập
64 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp phát triển công tác Khuyến ngư tại công ty TNHH dịch vụ Khuyến ngư Trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học – kỹ thuật, bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học- cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo quy luật sinh học nhất định con người không thể ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng , mà phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn cac quy luật để có những giải pháp tác động thích hợp với chúng.
Việt Nam đang trên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã lựa chọn nông nghiệp là xuất phát điểm, là “kim chỉ nan “ bởi vì từ xa xưa người dân nước Việt đã biết tận dụng những tiềm năng, nguồn lực sẵn có để phát triển kinh tế, để tự nuôi sống bản thân và gia đình.
Trong các ngành kinh tế nông nghiệp, thuỷ sản là ngành còn có nhiều khả năng và tiềm năng chưa được huy động để phát triển. Với 3260 km bờ biển , 12 đầm phá và các eo vịnh, 112 cửa sông, lạch , hàng ngàn đảo lớn nhỏ ven biển. Trong nội địa hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và các hồ thuỷ lợi, thuỷ điện, đã tạo cho nước ta tiềm năng to lớn về mặt nước, nguồn lợi giống loài thuỷ sản phông phú và nguồn lực lao động dồi dào , thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Hơn nữa, hàng năm vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho phép khai thác khoảng 1.669.000 tấn hải sản các loại. Ngoai ra, có thể khai thác hàng trăm nghìn tấn nhuyễn thể vỏ cứng (như nghêu, sò, điệp, ốc…) và rong tảo, các loại đặc sản quí hiếm khác .
Cùng với dân số thế giới tiếp tục gia tăng và sự phát triển kinh tế, nâng cao sức sống của cộng đồng khiến cho nhu cầu đối với nhiều loại sản phẩm thuỷ sản mà Việt Nam có khả năng sản xuất đang và sẽ còn tăng mạnh. Quan hệ cung – cầu trên thị trường thuỷ sản thế giới ngày càng thể hiện rõ sự thiếu hụt nguồn cung cấp. Thế giới đang chuyển sang sử dụng ngày càng nhiều hải sản. Nhu cầu sản phẩm đang phát triển mạnh theo hai hướng: sản phẩm giá trị gia tăng, sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ và các loại thuỷ sản tươi sống.
Bởi vì các hoạt động khuyến khích, hướng dẫn người dân tham gia nuôi trồng những hiểu biết về kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản còn nhiều hạn chế nên công tác Khuyến ngư trong giai đoạn hiên nay là rất cần thiết. Vì thế tôi đã lựa chọn đề tài một số giải pháp phát triển công tác Khuyến ngư tại công ty TNHH dịch vụ Khuyến ngư Trung ương làm chuyên để thực tập
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÀNH THUỶ SẢN VÀ CÔNG TÁC KHUYẾN NGƯ
I- VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH THUỶ SẢN TRONG NỀN KINH TẾ .
1. Bản chất ngành thuỷ sản :
1.1 Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất độc lập :
Nước ta có khả năng tiềm tàng về sinh vật sống trong môi trường nước để phục vụ cho nhu cầu đời sống con người đã tiến hành khai thác nuôi trồng và chế biến là sinh vật thuỷ sinh nên các hoạt động sản xuất của ngành thuỷ sản gắn liền với đất và nước.
Ngành thuỷ sản là một ngành sản xuất vật chất độc lập, có đối tượng lao động, phương pháp lao động và lực lượng lao động riêng mang tính chuyên ngành, sản xuất thuỷ sản còn là một nghề nghiệp truyền thống lâu đời ở các quốc gia có nhiều ao, hồ và biển. Hiện nay, nghề nuôi trồng thuỷ sản đã phát triển nhanh chóng do tác động của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ với những giống loài mới có giá trị kinh tế cao, cùng với kỹ năng quản lý tiến bộ đã đưa ngành thuỷ sản trở thành ngành sản xuất vật chất độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nước ta đã xác định nông nghiệp nói chung, ngành thuỷ sản nói riêng là một trong những hướng ưu tiên của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế.
1.2 Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất hỗn hợp gồm nhiều ngành sản xuất chuyên môn hẹp.
Người ta thường coi thuỷ sản thuộc nhóm ngành sản xuất ra tư liệu tiêu dùng do phần lớn sản phẩm cuối cùng được sản xuất từ nguồn nguyên liệu thuỷ sinh và được đưa vào tiêu dùng sinh hoạt. Trong thực tế, khi trình độ khoa học kỹ thuật phát triển nhu cầu tiêu dùng của con người nâng cao thì sản phẩm ngành thuỷ sản trở thành sản phẩm trung gian, làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất và chế biến.
Do sản xuất thuỷ sản là một bộ phận của sản xuất nông nghiệp nên việc nuôi trồng, bảo vệ, và tái tạo nguồn lợi cho đến khai thác đều phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, vùng địa lý, khí hậu, thuỷ văn, giống, loại thuỷ sản…Mặt khác, các ngành chuyên môn hẹp lại có tính công nghệ rõ rệt.
2. Vai trò ngành thuỷ sản trong nền kinh tế:
Ở nước ta, thủy sản giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và là ngành kinh tế mũi nhọn thể hiện trên 3 mặt:
Về mặt kinh tế:
Ngành thuỷ sản có đóng góp vô cùng to lớn trong việc giải quyết các vấn đề an ninh lương thực, thực phẩm nhất là vấn đề giải quyết việc làm. Ngày nay dân số tăng nhanh với một mức độ chóng mặt vì thế các quốc gia gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề đảm bảo an ninh lương thực cũng như giải quyết việc làm cho thanh niên đến tuổi lao động. Theo thống kê của FAO về việc tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản cho biết mức tiêu thụ trung bình trên đầu người ở các nước phát triển là 35,9 kg/năm, các nước đang phát triển là 12,3 kg/năm, ở Việt nam là 16,5 kg/năm. Mức sông của cộng đồng khiến cho nhu cầu đối với nhiều loại thuỷ sản mà Việt Nam có khả năng sản xuất đang và sẽ còn tăng mạnh. Quan hệ cung –cầu trên thị trường thế giới ngày càng thể hiện rõ sự thiếu hụt nguồn cung cấp. Do đó, để đáp ứng nhu cầu của xã hội, vấn đề đặt ra là cần phát triển thuỷ sản ở trình độ cao.
Thuỷ sản là khu cung cấp nguyên liệu to lớn, cần thiết cho các khu công nghiệp chế biến thuỷ hải sản. Cũng từ đó giá trị của thuỷ hải sản tăng lên nhiều lần làm tăng khả năng cạnh tranh, tăng thu nhập cho doanh nghiệp và nhà nước. Nhu cầu về sản phẩm thuỷ hải sản hiện nay đang phát triển mạnh theo hai hướng: sản phẩm giá trị gia tăng, sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ và các loại thuỷ sản tươi sống nhưng không phải quốc gia nào cũng có săn thuỷ sản tươi sống để tiêu thụ nên các thuỷ hải sản qua chế biến và các sản phẩm có giá trị được chú ý phát triển nhiều hơn để xuất khẩu bởi sản phẩm thuỷ hải sản là sảm phẩm thuộc loại “mau ươn, chong thối”.
Phát triển ngành thuỷ sản ở nhiều khu vực tạo ra khả năng phát triển khu du lịch sinh thái nhất là ngành nuôi trồng thuỷ hải sản. Đây là một hướng lâu dài và hiệu quả bởi nuôi trồng thuỷ hải sản đòi hỏi rất nhiều vốn như thế gây kho khăn rất lớn đối với bà con nông dân vì thế chúng ta kết hợp nuôi trồng với phát triển du lịch sinh thái sẽ tạo ra lượng tiền đáng kể giảm bớt sức ép về nuôi trồng thuỷ hải sản.
Phát triển sản xuất thuỷ sản sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp bao gồm cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Việc tăng cầu trong khu vực thuỷ sản và nông thôn sẽ tác động trực tiếp đến khu vực phi nông nghiệp và thuỷ sản tạo điều kiện thuận lợi cho công nghiệp phát triển.
Thuỷ sản là mặt hàng xuất khẩu rất quan trọng của Việt Nam hiện nay. Mặc dù ngành thuỷ sản là một ngành chứa đựng rất nhiều rủi ro nhưng giá trị sản phẩm ngành mang lại là rất lớn nhất là đối với quá trình phát triển đi lên để hội nhập thế giới của nước ta bởi hàng xuất khẩu thuỷ sản có đóng góp không nhỏ vào GDP hàng năm. Đồng thời nước ta có tiềm năng to lớn phát triển thuỷ sản vì thế xuất khẩu thuỷ sản cũng là một nhu cầu tất yếu của bà con ngư dân để tăng giá trị sản phẩm thuỷ sản mà họ làm ra.
Về mặt xã hội:
Ngành thuỷ sản phát triển tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, phần lớn là ở các vùng nông thôn và ven biển. Vì ở các quốc gia này dân số đông trong khi trình độ dân trí lại thấp nên phát triển ngành thuỷ sản đang là hướng đi chủ yếu ở các nước có điều kiện khí hậu thuận lợi, tạo ra việc làm thu hút một khối lượng lớn lao động nông nhàn, làm tăng thu nhập đảm bảo đời sống, góp phần làm giảm đi làn sóng di dân vào thành thị.
Ở Việt nam, phát triển thuỷ sản gắn liền với việc xoá đói giảm nghèo đặc biệt ở vùng cao, vùng sâu. thực phẩm thuỷ sản sản xuất tại chỗ còn trực tiếp làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, còi xương ở trẻ em vùng cao. Sản xuất thuỷ sản phát triển, việc tập trung sản xuất ở ven sông, suối, ao hồ còn giúp xoá bỏ tập quán du canh, du cư, tăng cường an ninh biên giới trên đất liền. Ngoài ra, phát triển các hạng tàu khai thác biển cũng là góp phần tăng cường an ninh quốc phòng, bảo vệ lãnh hải chủ quyền, biên giới hải đảo.
Về môi trường:
Phát triển ngành thuỷ sản hợp lý là điều kiện cơ bản để bảo vệ môi trường sinh thái. Nước ta có tiềm năng lớn về sinh vật biển, diện tích mặt nước rộng lớn những vấn đề đặt ra hiện nay là việc khai thác sao cho đảm bảo cân bằng sinh thái, vì thế ngành thuỷ sản đóng vai trò to lớn trong công cuộc bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững. Bảo vệ môi trường nước, sự đa dạng sinh học của biển đồng nghĩa với việc bảo vệ sự sống trên hành tinh chúng ta. Trên thế giới ngành thuỷ sản được coi là người đi tiên phong trong việc tìm kiếm các giải pháp duy trì sự phát triển bền vững của môi trường nước, đặc biệt là các sinh vật biển.
3. Đặc điểm của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế :
Mỗi một ngành, lĩnh vực đều mang những đặc điểm riêng đặc biệt là ngành thuỷ sản có những đặc trưng rất riêng. Những đặc trưng đó có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của ngành những đặc điểm đó là:
3.1. Đối tượng ngành thuỷ sản, như tên gọi của nó “thuỷ sản ”, là những cơ thể sống trong môi trường nước, có các qui luật sinh trưởng và phát triển riêng :
Đối tượng sản xuất của ngành thuỷ sản là những cơ thể sống đây là điểm hết sức khác biệt so với ngành công nghiệp vì đối tượng sản xuất của chúng là những vật vô chi, vô giác hỏng có thể thay thế được còn đối với thuỷ sản nếu những sinh vật thuỷ sinh đó mắc bệnh hoặc chết thì cũng đồng nghĩa với vụ thu hoạch đó mất mùa. Tuy nhiên, các loài động thực vật thuỷ sinh lại có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao như: cá, nhuyễn thể, giáp xác, rong tảo….
3.2. Trong sản xuất kinh doanh thuỷ sản, thuỷ vực là tư liệu sản xuất chủ yếu không thay đổi.
Cũng như nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thay thế được, trong thuỷ sản thuỷ vực cũng là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu. Thuỷ vực bao gồm các loại hình mặt nước, ao ,hồ, sông, biển…
Thuỷ vực có khả năng phân giải nên con người thường coi thuỷ vực là nơi thải rác sinh hoạt và các chất phế thải công nghiệp song nếu thải quá mức thì thuỷ vực không còn khả năng phân giải làm sạch nước dễ dẫn đến ô nhiễm nguồn nước.
Đối với các ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác nước hay thuỷ vực chỉ là một yếu tố sản xuất, thậm trí còn ít ý nghĩa kịnh tế. Song đối với sự phất triển của thế giới tư nhiên thì nước là vấn đề sống còn trong đó có cả cuộc sống của con người.
Tuy nhiên, thuỷ vực có những nét đặc trưng riêng biệt ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành thuỷ sản như:
3.2.1. Thuỷ vực có giới hạn tuyệt đối về không gian:
Đó là diện tích mặt nớc (nội địa và biển) mà mỗi quốc gia có được nhưng sức sản xuất sinh học của nó là vô hạn.giới hạn tương đối của thuỷ vực được hiểu là phần diên tích mặt nước có khả năng sử dung cho khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Như vậy, giới hạn tương đối cùa thuỷ vực luôn nhỏ hơn tổng lượng cung mặt nước trong một quốc gia và nó phụ thuộc vào các điều kiện địa lý, khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng cũng như trình độ phát triển thuỷ sản ở mỗi nước. Ở Viêt Nam thuỷ vực có nhiều loại hình phong phú và tổng diện tích mặt nước vào sản xuất còn thấp kể cả chiều rộng và chiều sâu, trong nôi địa và trên biển. Vì vậy, chúng ta cần hết sức khai thác tiềm năng mặt nước, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên quí giá này để phát triển thuỷ sản mạnh mẽ và bền vững.
3.2.2. Thuỷ vực có vị trí cố định, mực nước biến đổi theo mùa và chất lương không đồng đều:
Thuỷ vực là loại tư liệu sản xuất gắn liền với các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của mỗi vùng, mỗi cộng đồng người… khác với các tư liệu sản xuất khác là chúng có thể di chuyển vị trí để phù hợp với các điều kện sản xuất nhưng thuỷ vực lại cố định cho nên cần thiết tiến hành qui hoạch các vùng nước canh tác (nuôi trồng và khai thác), bố trí kết hợp tối ưu các yếu tố đầu vào, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng thích hợp để sản xuất có hiệu quả. Mặt khác, cần thiết cải tạo và không ngừng nâng cao chất lượng vùng nước canh tác để đạt đợc năng suất cao hơn.
3.2.3. Thuỷ vực là tư liệu sản xuất không bị đào thải khỏi quá trình sản xuất, nếu biết sử dụng hợp lý thì duy trì được chất lượng nước tốt cho việc canh tác lâu dài:
Thông thờng các tư liệu sản xuất sau một thời gian sử dụng đều bị hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình và cuối cùng bị đào thải khỏi quá trình sản xuất. Còn thuỷ vực được coi là loại tư liệu sản xuất “vĩnh cửu” của sản xuất thuỷ sản với điều kiện đảm bảo tốt mối quan hệ kinh tế –sinh thái trong thuỷ vực không ngừng cải tạo chúng chống các tác nhân gây ô nhiễm vùng
3.3. Sản xuất thuỷ sản được tiến hành phân tán rông khắp các vùng đia lý và mang tính khu vực rõ rệt:
Như chúng ta đã biết thuỷ sản là một phần của sản xuất nông nghiệp nên sản xuất thuỷ sản chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên do đó nó mang tính khu vực rõ rệt vì mỗi một vùng địa lý có những đặc trưng riêng và thời tiết khí hậu khác nhau.
Ở đâu có ao hồ, sông ngòi, biển thì ở đó có nghề nuôi trồng và khai thác thuỷ sản. Thuỷ vực được phân bố rộng khắp các vùng địa lý, ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào lịch sử hình thành các loại đất, qua trình sử dụng và khai thác vào các mục đích khác nhau. Vì vậy, mỗi thuỷ vực có chế độ thuỷ lý hoá, thuỷ văn khác nhau do đó các giống loài thuỷ sản cũng khác biệt về nhiều mặt.
3.4. Sản xuất thuỷ sản mang tinh thời vụ cao :
Dưa trên qui luật sinh trưởng và phát triển của động thực vật thuỷ sinh, con người tác động trực tiếp nhằm tạo ra sản phẩm cuối cùng có chất lượng và năng suất cao, song các động thực vật nuôi trồng và khai thác còn phải chịu tác động của tự nhiên, Vì vậy, thời gian lao động và thời gian sản xuất không trùng khớp nhau tạo ra tính thời vụ của sản xuất thuỷ sản.
Ngoài những đặc điểm trên ở Việt Nam sản xuất kinh doanh thuỷ sản còn có những nét riêng sau:
Thuỷ sản nước ta thuộc vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, ở các tỉnh phía Bắc có pha trộn tính ôn đới.
Ngành thuỷ sản Việt Nam đã đi lên từ một nền sản xuất manh mún. Phân tán và rất lạc hậu tại các vùng nông thôn đồng bằng bắc bộ và vùng ven biển.
Quà trình phát triển thăng trầm từ những năm 60 tới nay, ngành thuỷ sản đã trở thành một ngành sản xuất chính trong nền kinh tế quốc dân.
II- NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN THUỶ SẢN Ở VIỆT NAM:
Điều kiện tự nhiên:
1.1.Thời tiết khí hậu:
Việt Nam là một quốc gia năm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa song mỗi miền có đặc trưng khác nhau.
Miền Bắc:
Nhiệt độ không khí trung bình 22,2 – 23,5oC, lượng mưa trung bình từ 1500 - 2400mm tổng số giờ nắng từ 1650 - 1750 giờ/năm. Mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 8 và là vùng chịu ảnh hưởng lớn của bão và bão xuất hiện sớm trong cả nước. Vùng biển khu vực này thuộc nhật triều với biên độ 3,2 – 3,6m.
Miền Trung:
Nhiệt độ trung bình 25,5 – 27,5oC, mưa tập trung vào cuối tháng 9 đến tháng 11, nắng nhiều từ 2300 – 3000 giờ/năm. Chế độ thuỷ triều gồm nhật triều, có nhiều đầm phá thích hợp nuôi thuỷ sản.
Miền Nam:
Khí hậu mang tính chất xích đạo, nhiệt độ trung bình 22,6 – 27,6oC, mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 10. Lượng mưa trung bình 1400 – 2400mm, nắng trên 2000giờ/năm. Vùng này chủ yếu chế độ bán nhật triều biên độ 2,5 – 3m.
Chế độ khí hậu, thời tiết, các điều kiện tự nhiên đa dạng tạo điều kiện phát triển nuôi trồng thuỷ sản đa loài, nhiều loại hình. Hơn nữa, biển Việt Nam còn là nơi giao lưu của các dòng biển nóng nên cá Việt Nam đa dạng về số lượng, phong phú về chất lượng.
Tuy nhiên, ngoài những thuận lợi do điều kiện tự nhiên mang lại thì tự nhiên cũng mang lại không ít khó khăn gây ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất của bà con ngư dân. Nước ta hàng năm phải hứng chịu những trận bão lơn phá huỷ biết bao đồng ruộng, làng mạc, những đợt hạn hán kéo dài gây nguy cơ cháy rừng nghiêm trọng.
1.2. Diện tích mặt nước:
Việt Nam có tiềm năng dồi dào để phát triển thuỷ sản thành một ngành kinh tế quan trọng. Việt nam có bờ biển trải dài từ Móng Cái tỉnh Quảng Ninh (phía Bắc) đến Hà Tiên của tỉnh Kiên Giang (phía Nam) có diện tích vùng nội thuỷ và lãnh hải rộng 226.000 km2, diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1.000.000 km2. Trong vùng biển Việt Nam có trên 4000 hòn đảo, là nơi có thể dùng làm căn cứ cung cấp các dịch vụ hậu cần cơ bản, trung chuyển sản phẩm khai thác đồng thời làm nơi trú đậu cho các tàu thuyền trong mùa mưa bão. Bờ biển Việt Nam có nhiều vịnh, đầm phá, cửa sông… và trên 400 nghìn ha rừng ngập mặn đó là tiềm năng to lớn để Việt Nam phát triển hoạt động kinh tế hướng biển, đặc biệt là phát triển khai thác và nuôi trồng hải sản. Bên cạnh đó, trong đất liền, Việt Nam còn có diện tích mặt nước ngọt, nước lợ có thể sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản khoảng 1,7 triệu ha.
Về nguồn lợi cá nước ngọt theo thống kê có khoảng 544 loài trong 18 bộ, 57 hộ, 228 giống. Với thành phần giống loài phong phú nước ta được đánh giá là đất nước có nguồn sinh học đa dạng. Trong 544 loài có nhiều loài có giá trị kinh tế.
Về nguồn lợi cá nước lợ, nước mặn đã thống kê có 186 loài chủ yếu. Một số loài có giá trị kinh tế như: cá song, cá hồng, cá trớp, cá vược, cá măng, cá cam, cá bống, cá bớp… đã đưa vào nuôi cá vược, cá giò, cá song, cá măng, cá cam…
Về nguồn lợi tôm đã thống kê được 16 loài có giá trị kinh tế và đưa vào nuôi tôm sú (p.mondon), tôm lớt (p.merguiensis), tôm he Ấn Độ (p.indicus), tôm rảo (metapenaeusensis), tôm nương (p.orientalis), tôm hùm bông (panalirus ornatus), tôm càng xanh (macrobrachium rosenbegi).
Về nhuyễn thể có một số loài chủ yếu như trai, hầu, điệp, nghêu, sò, ốc…đang được đưa vào nuôi.
Về rong tảo với 90 loài có giá trị kinh tế trong đó đáng kể là rong câu (có 11 loài), rong mơ, rong sụn…
Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm riêng biệt cả ngành thuỷ sản thì thuỷ vực là nhân tố tự nhiên tác động chủ yếuđến sự phát triển của ngành thuỷ sản. Nó vừa lầ đối tượng lao động vừa là tư- liệu lao động của con người… không có thuỷ vực không thể tiến hành sản xuất kinh doanh thuỷ sản.
Tiềm năng của thuỷ vực nước ta lớn và đa dạng xét về diện tích mặt nước (trong nội địa và biển ) các loài thuỷ vực và khu hệ động thực vật thuỷ sinh, trước hết là các loài cá
Về vùng biển: bờ biển nước ta dài 3260 km trải dài trên 13 vĩ độ theo hướng Bắc-Nam, vùng đặc quyền kinh tế biển có diện tích khoảng một triệu km2 (gấp 3 lần diện tích đất liền ) Biển Đông củ nước ta thuộc loại giàu có hải sản trên thế giới với 2000 loài cá đã biết, trong đó có hơn 100 loài có giá trị kinh tế trữ lượng cá khoảng 3 triệu tấn/năm. Sản lượng khai thác cho phép trên dưới 1,3 triệu tấn/năm. Giáp xác có 1647 loài trong đó có tôm là 70 loài, tôm hùm 20 loài có già trị kinh tế lớn. Nhuyễm thể thân mềm khoảng 2500 loài nhiều giá trị kinh tế như mực, sò huyết, hải sâm, bào ngư…. Ngoài ra, còn có 600 loài rong biển là nguồn thức ăn và nguyên liệu quí cho công nghiệp.
Vùng nước nội địa: loại hình mặt nước nội địa của nước ta rất đa dạng bao gồm ao hồ nhỏ, sông suối, hồ chứa nước, ruộng trũng, các đầm phá và các bã triều ven biển…. Diện tích có khả năng nuôi trồng thuỷ sản xấp xỉ 1.4 triệu ha trong đó: ao hồ nhỏ là 5700 ha, ruộng trũng : 550000 ha, mặt nước lớn là 400000 ha, bãi triều ven biển 400000ha. Ngoài ra, còn có các hệ thông sông Hồng, sông Thái Bình ở phía Bắc, hệ thống sông Cửu Long, sông Đồng Nai phía nam và hệ thông các sông ngoì miền Trung nước ta.
Trong đó khu hệ cá nước ngọt phía Bắc có 240 loài có 30 loài có giá trị kinh tế. Thuỷ đặc sản nước ngọt đứng đầu là tôm với 17 loài có giá trị kinh tế. Khu hệ cá nước ngọt phía nam có khoảng 255 loài trong đó có 10 loài chung với khu hệ phía Bắc khoảng 200 loài chung với khu hệ cá nước ngọt Thái Lan (chiếm 78%) có 42 loài có giá trị kinh tế.
2. Điều kiện kinh tế:
2.1. Vấn đề lao động :
Nguồn lực lao động là yếu tố hàng đầu trong mọi hoạt đông sản xuất thuỷ sản. Lao động thuỷ sản găn liền với lao động n