Trải qua hơn 15 năm đổi mới, việc thực hiện và đưa nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI vào cuộc sống (năm 1987) và đặc biệt là Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (năm 1988). Kinh tế hộ nông dân nước ta đã đạt được những thành quả to lớn, góp phần quan trọng tạo lên sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế đất nước. Khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp - nông thôn, phát huy những lợi thế vốn có của đất nước, tạo công ăn việc làm, từng bước làm tăng thu nhập cho lao động làm nông nghiệp là những mục tiêu mà kinh tế hộ nông dân nước nhà về cơ bản đã làm được trong thời gian qua. Tuy nhiên, cũng từ những kết quả đạt được đó, trên con đường phát triển kinh tế hộ nông dân nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi chúng ta làm tốt hơn nữa trong thời gian tới như ruộng đất cho người nông dân, vốn, tín dụng cho hộ nông dân, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi thị trường cung ứng vật tư đầu vào, đầu ra, nâng cao trình độ tay nghề, kiến thức cho người lao động trong nông nghiệp nông thôn.
Ý Yên là một huyện đồng bằng chiêm chũng với đa số hầu hết là các hộ thuần nông. Cũng như các vùng khác trên phạm vi cả nước hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp nông thôn của huyện là kinh tế hộ nông dân. Nông nghiệp là ngành luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của toàn thể nhân dân và hộ nông dân cũng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số hộ gia đình sinh sống trên địa bàn huyện. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân nơi đây cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết nhằm khai thác tốt hơn nữa các nguồn lực nông nghiệp - nông thôn, không ngừng nâng cao chất lượng lao động và đời sống của người nông dân. Và đó cũng là một vùng biểu hiện chung cho kinh tế nông hộ của vùng đồng bằng Sông Hồng. Vì vậy em lựa chọn đề tài "Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Ý Yên - Nam Định" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp cho mình. Với hy vọng, củng cố lại những kiến thức đã được học ở nhà trường từng bước nâng cao trình độ tiếp cận những vấn đề thực tiễn của bản thân vận dụng kiến thức thực tế, xem xét, đánh giá một vấn đề cụ thể trong thực tế.
Để từ đó tổng hợp những lý luận số liệu cộng với sự hướng dẫn của thầy giáo. Đánh giá, phân tích và trình bày đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế nông hộ.
Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Ý Yên - Nam Định.
Chương III: Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Ý Yên.
Do điều kiện về trình độ và thực tế quan sát nhận biết vẫn còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trần Quốc Khánh tập thể cán bộ thư viện trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tập thể cán bộ thư viện Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp đã tận tình hướng dẫn sửa chữa và tra cứu tài liệu giúp em hòan thành bài viết này.
62 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Ý Yên - Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I
LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hơn 15 năm đổi mới, việc thực hiện và đưa nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI vào cuộc sống (năm 1987) và đặc biệt là Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (năm 1988). Kinh tế hộ nông dân nước ta đã đạt được những thành quả to lớn, góp phần quan trọng tạo lên sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế đất nước. Khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp - nông thôn, phát huy những lợi thế vốn có của đất nước, tạo công ăn việc làm, từng bước làm tăng thu nhập cho lao động làm nông nghiệp là những mục tiêu mà kinh tế hộ nông dân nước nhà về cơ bản đã làm được trong thời gian qua. Tuy nhiên, cũng từ những kết quả đạt được đó, trên con đường phát triển kinh tế hộ nông dân nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi chúng ta làm tốt hơn nữa trong thời gian tới như ruộng đất cho người nông dân, vốn, tín dụng cho hộ nông dân, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi thị trường cung ứng vật tư đầu vào, đầu ra, nâng cao trình độ tay nghề, kiến thức cho người lao động trong nông nghiệp nông thôn.
Ý Yên là một huyện đồng bằng chiêm chũng với đa số hầu hết là các hộ thuần nông. Cũng như các vùng khác trên phạm vi cả nước hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp nông thôn của huyện là kinh tế hộ nông dân. Nông nghiệp là ngành luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của toàn thể nhân dân và hộ nông dân cũng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số hộ gia đình sinh sống trên địa bàn huyện. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân nơi đây cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết nhằm khai thác tốt hơn nữa các nguồn lực nông nghiệp - nông thôn, không ngừng nâng cao chất lượng lao động và đời sống của người nông dân. Và đó cũng là một vùng biểu hiện chung cho kinh tế nông hộ của vùng đồng bằng Sông Hồng. Vì vậy em lựa chọn đề tài "Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Ý Yên - Nam Định" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp cho mình. Với hy vọng, củng cố lại những kiến thức đã được học ở nhà trường từng bước nâng cao trình độ tiếp cận những vấn đề thực tiễn của bản thân vận dụng kiến thức thực tế, xem xét, đánh giá một vấn đề cụ thể trong thực tế.
Để từ đó tổng hợp những lý luận số liệu cộng với sự hướng dẫn của thầy giáo. Đánh giá, phân tích và trình bày đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế nông hộ.
Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Ý Yên - Nam Định.
Chương III: Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Ý Yên.
Do điều kiện về trình độ và thực tế quan sát nhận biết vẫn còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trần Quốc Khánh tập thể cán bộ thư viện trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tập thể cán bộ thư viện Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp đã tận tình hướng dẫn sửa chữa và tra cứu tài liệu giúp em hòan thành bài viết này.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN
I. KHÁI NIỆM - BẢN CHẤT.
Kinh tế hộ nông dân là khái niệm đã được đề cập đến từ rất sớm trong lịch sử phát triển của loài người. Từng hình thái phát triển nền kinh tế khác nhau trôi qua lại cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn về kinh tế hộ nông dân ở thời kỳ lịch sử đó.
Tất nhiên, tuỳ từng thời kỳ phát triển khác nhau, tuỳ từng cách tiếp cận khác nhau mà chúng ta nhận được những lý thuyết không hoàn toàn giống nhau về kinh tế hộ nông dân.
- Tư tưởng của C.Mác và Ph - Anggen.
Đối với vấn đề nông dân, cả Mác - Anggen đều tỏ thái độ hết sức thận trọng.
Lúc đầu, khi nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh nhận thấy quá trình người nông dân bị tách khỏi ruộng đất một cách ồ ạt, Mác đã tuyên đoán giai cấp nông nhân sẽ bị xoá bỏ cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản xuất như trong công nghiệp.
Nhưng sau đó, bất chấp xu hướng diễn ra trong thời kỳ công nghiệp hoá nhanh chóng ở nước Anh, nông trại gia đình về căn bản không dựa trên lao động làm thuê, vẫn tỏ rõ sức sống và hiệu quả của nó. Từ đó trong quyển III của bộ tư bản, Mác đã viết "Ngay ở những nước siêu công nghiệp… với thời gian cho đến nay đã khẳng định rằng hình thức lãi nhất không phải là nông trại công nghiệp hoá mà là nông trại gia đình không dùng lao động làm thuê. Những nước còn giữ hình thức tư hữu chia đất thành khoảnh nhỏ, giá cả ngũ cốc trong những nước mà chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ còn chiếm địa vị thống trị thường thấp hơn so với những nước có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa".
- Tư tưởng của V.L.Lênin:
Với tư duy biện chứng và hoạt động thực tiễn, V.I. Lênin đã có những đóng góp quan trọng vào những luận điểm nêu trên của Mác và Angghen.
Năm 1908, khi bàn về việc lựa chọn con đường phát triển của nông nghiệp nước Nga, Lênin đã nhận thấy rằng: Không thể phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa kiểu Phổ vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả, mà phải là theo kiểu một chủ trại tự do trên mảnh đất tự do, nghĩa là mảnh đất đó được dọn sạch khỏi những tàn tích trung cổ, đó là kiểu Mỹ, Lênin cho rằng Cauxky đã đặt vấn đề rất chính xác và đúng đắn khi nói rằng: Nông nghiệp khong phát triển theo cùng một kiểu với công nghiệp.
Thực tế cho đến nay, ngày càng khẳng định sự phát triển thắng thế của con người khác với kiểu "Nông trại kỹ nghệ" ở Anh hoặc "Đại điền trang kiểu Phổ" mà Mác và Lênin đã phán đoán ở nhiều nước.
- Tư tưởng của A.V.Traianôp.
Kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế phức tạp của tổ chức sản xuất nông nghiệp. Đó là những doanh nghiệp hàng hoá gia đình nông dân không thuê nhân công mà chiếm đại bộ phận nông hộ ở nước Nga trứơc cách mạng cũng như trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.
Kinh tế nông dân gắn bó hữu cơ với gia đình nông dân vì thế có thể coi kinh tế nông nghiệp nông dân là kinh tế gia đình. Đó là một xí nghiệp lao động gia đình sống theo những quy luật của nó, khác với những quy luật từ bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở lao động làm thuê. Trong kinh tế gia đình, người nông dân vừa là người chủ, vừa là người lao động. Mục đích sản xuất không phải vì lợi nhuận mà là để thoả mãn những nhu cầu của gia đình.
Khi vượt khỏi kinh tế nửa tự nhiên (nửa tự cung tự cấp) người nông dân bắt đầu cảm thấy rõ sự cần thiết của tín dụng, Kỹ thuật và công nghệ tiến bộ. Nhưng mặt khá, các quá trình thuần tuý sinh học (trong trồng trọt cũng như trong chăn nuôi) lại đòi hỏi một sự chăm sóc của từng cá nhân và điều đó lại hạn chế sự phát triển theo chiều rộng của doanh nghiệp nông dân.
Mỗi ngành có một giới hạn tối ưu cần thiết. Khi giới hạn tối ưu vượt quá khuôn khổ kinh tế của gia đình nông dân, lúc đó, nông dân tìm cách hợp tác với nhau để đạt giới hạn tối ưu mới, bằng cách đó là chuyển dần lên sản xuất lớn. Nói cách khác, do không có khả năng tập trung vô hạn theo chiều sâu như trong công nghiệp nên sản xuất nông nghiệp chủ có thể tập trung theo chiều rộng từ quá trình này đến quá trình khác. Như vậy người nông khi làm chủ và người lao động sẽ đi tới chỗ liên kết các quá trình và các ngành "tách rời nhau" cùng nhau mua sắm tư liệu sản xuất, thành lập các nhóm sử dụng máy móc và tiêu thụ sản phẩm, cải tạo đất đai. Và bằng cách đó mà thay đổi cách kinh doanh của mình.
- Tư tưởng của Frank Elliss:
Kinh tế hộ nông dân là sản xuất của các hộ gia đình nông nghiệp, có quyền sinh sống trên các mảnh đất đai, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình. Sản xuất của họ thường nằm trong hệ thống sản xuất lớn hơn và tham gia ở mức độ không hoàn hảo và hoạt động của thị trường.
- Quan điểm của Liên Hợp Quốc:
+ Về phương diện thống kê:
Liên hợp quốc cho rằng: Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có cùng một ngân quỹ.
+ Về phương diện sản xuất:
Liên hợp quốc cho rằng: Kinh tế hộ là một hình thức tổ chức cơ sở của nền sản xuất hàng hoá. Nó hoạt động sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình, có một hoặc một số người lao động tự đầu tư khả năng về vốn để trang bị tư liệu sản xuất, sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ theo yêu cầu sản phẩm cho sự sinh tồn của họ trên thị trường.
Mỗi tư tưởng, mỗi quan điểm cho ta một cách nhận thức tổng quát về kinh tế hộ nông dân hoặc kinh tế hộ nông dân trên một mặt nào đó. Tuy vậy, chúng ta có thể hiểu:
Kinh tế hộ nông dân là tế bào kinh tế - xã hội được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống, phong tục, tâm linh, tâm lý, đạo đức. Là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông dân và nông thôn. Kinh tế hộ nông dân đã tồn tại từ rất lâu ở các nước nông nghiệp, tự chủ trong sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, là pháp nhân kinh tế, bình đẳng trước pháp luật và là chủ thể nền kinh tế thị trường.
Từ những tư tưởng, những quan điểm, khái niệm và những đặc điểm của kinh tế hộ nông dân như đã nêu ở trên chúng ta có thể rút ra được bản chất của kinh tế hộ nông dân thể hiện ở những khía cạnh sau:
+ Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế, trong đó các thành viên hoạt động và làm việc một cách tự chủ, tự nguyện vì lợi ích của bản thân, của gia đình và của toàn xã hội.
+ Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế thích ghi nhất với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, nơi mà các cây trồng, vật nuôi đòi hỏi quan tâm sát sao, sự chăm sóc đúng lúc của con người. Đất đai và các tư liệu sản xuất khcs đòi hỏi một sự bảo quản và bồi dưỡng hợp lý từ người sử dụng, một yêu cầu mà không hình thức sản xuất nào khác đáp ứng được.
+ Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế phổ biến mang tính chất đặc thù ở mỗi vùng, mỗi khu vực và mỗi nước trên thế giới.
Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế cơ sở sản xuất, vừa tiêu dùng (mà người ta thường gọi tự cấp tự túc) sản phẩm mà hộ làm ra có thể được tiêu dùng luôn với vai trò là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.
+ Cũng như những thành phần kinh tế khác, kinh tế hộ nông dân phải vận dụng tổng hợp các quy luật tự nhiên và quy luật khách quan trong quá trình tồn tại và phát triển của mình.
+ Kinh tế hộ nông dân không những giải quyết tốt các mục tiêu của hộ nông dân mà còn giải quyết tốt vấn đề môi trường sinh thái và vấn đề xây dựng nông thôn mới.
II. VAI TRÒ ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Vai trò của kinh tế hộ nông dân.
Kinh tế hộ nông dân là một trong những thành phần cấu tạo lên nền kinh tế quốcdân của mỗi nước, nó không chỉ tự phát triển, tự ảnh hưởng mà còn ảnh hưởng tới và chịu sự ảnh hưởng tác động của tất cả các thành phần kinh tế khác. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
Trong các học thuết, các quan điểm của mình, các nhà kinh tế, các nhà chính trị đã phần nào nêu lên những chứng kiến của mình về vai trò của kinh tế hộ. Trong bấykỳ thời đại nào, bất kỳ thời điẻm lịch sử nào kinh tế hộ nông dân vẫn luôn đóng vai trò quan trọng.
- Cung cấp lượng lương thực, thực phẩm chủ yếu phục vụ cho đời sống và nhu cầu của con người:
Hàng năm trên toàn thế giới, với sự ổn định khoảng 300 triệu hộ nông dân đã đóng góp, giữ vai trò là lực lượng chủ đạo trong nền nông nghiệp toàn cầu. Sản xuất ra khoảng trên 2000 triệu tấn lương thực; trên 200 triệu tấn hạn có dầu và khoảng 1000 triệu tấn thịt, sữa, trứng,; hàng tỷ ra, quả cung cấp cho gần 6 tỷ người.
Ở Mỹ, chỉ với khoảng 65% đất nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân đã tạo ra một lượng nông sản chiếm khoảng 70% giá trị sản phẩm nông nghiệp, 50% sản lượng ngô toàn thế giới.
Ở Nhật Bản, kinh tế hộ nông dân đã sản xuất ra một khối lượng sản phẩm đủ cung cấp cho nhu cầu của cả nước với khối lượng: 100% nhu cầu về gạo; 81 nhu cầu về thịt; 98% nhu cầu về trứng; 90% nhu cầu về rau, quả…
Ở Việt Nam chúng ta với trên 10 triệu hộ nông dân, hàng năm đã tạo ra một khối lượng nông sản thực phẩm cực lớn với sự tiến bộ vượt bậc, theo thống kê năm 2000 thì khối lượng sản phẩm của toàn ngành nông nghiệp là: 35,36 triệu tấn lương thực quy thóc, xuất khẩu đạt 3,6 triệu tấn gạo, đã trồng được 717 nghìn ha ngô, sản lượng xuất khẩu các phê đạt 694 nghìn tấn, cao su đạt 280 nghìn tấn, sản lượng thịt trứng liên tục tăng với tốc độ cao, chúng ta không những đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân cả nước mà còn vươn lên trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn nhất trên thế giới.
- Hình thành đơn vị tích tụ vốn của xã hội.
Kinh tế hộ nông dân với đặc điểm là đơn vị sản xuất cơ sở và tự chủ đã đóng vai trò là đơn vị tích tụ vốn của xã hội , cùng với các đơn vị trong các thành phần kinh tế khác tạo lên một tổng thể các nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu về vốn của toàn xã hội.
Nguồn vốn mà các hộ nông dân tích tụ được là cơ sở cho việc chuyển từ kinh tế tự túc tự cấp sang kinh tế hàng hoá với hiệu quả cao mang lại. Kết quả ấy sẽ tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong nông nghiệp, góp phần tích cực và to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, kinh tế hộ nông dân vừa là đơn vị tích tụ vốn, vừa đóng vai trò là đơn vị giải ngân nguồn vốn đó vào việc tái sản xuất hoặc mở rộng ngành nghề, tạo nguồn đầu tư vào các ngành khác.
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Trong quá trình sản xuất, kinh tế hộ nông dân cần sử dụng nhiều lao động với số ngày công rất cao. Tuy nhiên với mỗi dạng hộ khác nhau, ở mỗi thời điểm và thời kỳ phát triển của hộ khác nhau mà có nhu cầu về lao động không giống nhau:
Sử dụng lao động gia đình:
Hộ nông dân chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình và lao động trong gia đình cũng là nguồn chủ yếu cung cấp cho nhu cầu của hộ, chúng ta phải nói rằng đa số lao động trong hộ đều làm việc cho sự phát triển và mục tiêu sản xuất cũng như quá trình sản xuất của hộ nông dân.
Sử dụng lao động gia đình ngoài độ tuổi lao động.
Hiện nay, một tình trạng khá phổ biến là ở các hộ nông dân, việc sử dụng lao động ngoài độ tuổi lao động, đó là các trẻ em và người lớn tuổi, với cách tính cứ hai lao động này bằng một lao động chính đã góp phần tăng thu nhập cho hộ, giải phóng dần lực lượng lao động chính ra khỏi nông nghiệp đến một mức hợp lý.
Sử dụng lao động làm thuê:
Việc sử dụng lao động làm thuê rất ít khi xảy ra ở những hộ tự túc tự cấp, sản xuất nhỏ nhưng lại là việc làm khá phổ biến ở các hộ nông dân sản xuất hàng hoá và sản xuất lớn. Những hộ nông dân này việc thuê mướn thêm lao động thường xuyên hoặc vào thời vụ là điều cần thiết với tiền công hợp lý đã tạo ra một số lượng công ăn việc làm khá lớn cho những lao động dư thừa ở nông thôn hiện nay.
Kinh tế hộ nông dân, trong quá trình sản xuất và phát triển của mình cần rất nhiều ngày công lao động. Thực tế đã chứng minh qua những năm vừa qua, kinh tế hộ nông dân đã giải quyết cho hàng triệu lao động ở nông thôn nước ta, góp phần quan trọng vào công cuộc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
- Thực hiện phân công lao động theo đơn vị kinh tế hộ nông dân.
Cùng với quá trình phát triển của mình kinh tế hộ nông dân ngày càng có điều kiện để tích luỹ tái sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu, khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng như máy móc được áp dụng và sử dụng vào sản xuất ngày càng được nâng lên rõ rệt thêm vào đó là sự phù hợp trong cơ chế và các chính sách của nhà nước sẽ giúp cho sản xuất ngày càng số phát triển lao động phục vụ cho nhu cầu của kinh tế hộ về nông nghiệp ngày càng giảm, sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp. Số lao động dư thừa này với trình độ ngày càng được nâng lên sẽ chuyển dịch sang làm việc tại các ngành, nghề khác, nhất là các ngành nghề truyền thống sẽ ngày càng phát triển.
Tất cả những điều này sẽ dẫn tới diện tích đất nông nghiệp trên đầu người sẽ tăng, năng suất lao động tăng và hiệu quả sản xuất của một lao động sẽ không ngừng được nâng lên.
- Đổi mới kỹ thuật sản xuất.
Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân với tư cách là một thành phần kinh tế tồn tại và luôn đổi mới cùng với quá trình đổi mới, phát triển của nền kinh tế nói chung. Kinh tế hộ nông dân chịu sự ảnh hưởng tác động của các thành phần kinh tế khác, của nhiều yếu tố khác. Qua quá trình hoạt động, nó luôn phát triển hướng tới hoàn thiện mình, và đổi mới về kỹ thuật sản xuất chỉ là một mặt đổi mới của nó. Sự đổi mới về kỹ thuật sản xuất có được là do các nguyên nhân tác động sau đây:
+ Người nông dân với kinh nghiệm sản xuất ngày càng làm tốt hơn công việc của mình, phát hiện những khó khăn cần khắc phục và những thuận lợi cần khai thác phát huy.
+ Cùng với quá trình phát triển của mình, việc đầu tư cho đổi mới trang thiết bị sản xuất là điều tất yếu mà việc học hỏi khoa học kỹ thuật mới là việc làm thực sự cần thiết.
+ Trong đời sống kinh tế hộ nông dân thì việc lành mạnh, sự ganh đua với những kết quả đạt được sẽ là động lực, là nhân tố tích cực đầu tư và học hỏi.
+ Cùng với sự quan tâm về giáo dục của nhà nước, các mạng lưới khuyến nông ngày càng hoạt động có hiệu quả thì hệ quả là trình độ của người lao động trong hộ nông dân ngày một tăng lên. Điều này thực sự là nhân tố tích cực giúp vận dụng tốt những điều kiện vốn có, những tư liệu sản xuất trong nông hộ được kết hợp có khoa học mang lại hiệu quả kinh tế cao.
+ Qua thời gian và sự phát triển của nền kinh tế, đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp cũng ngày một tăng, góp phần khai thác tốt những tiềm năng, ưu thế riêng có của hộ.
Tất cả những điều nói trên kết hợp với nhau một cách hài hoà, khoa học, kinh nghiệm triyền thống kết hợp với kỹ thuật hiện đại làm cho sản phẩm sản xuất ngày càng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn, giá thành hạ hơn, lợi nhuận thu được cao hơn. Đó cũng là mục tiêu cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân.
Tuy nhiên hình thức kinh tế hộ nông dân vẫn là một hình thức hạn chế, với qui mô nhỏ lẻ sản xuất mang tính tự phát. Sự tiếp nhận trình độ khoa học kỹ thuật vẫn còn rất thụ động nên hiệu quả sản xuất thấp. Do đó cần tìm những biện pháp thúc đẩy nâng cao trình độ lao động theo kịp với sự phát triển khoa học công nghệ, tạo tích luỹ, chuyển các hình thức khác với khả năng tiếp nhận khoa học công nghệ và kiến thức thị trường cao hơn như kinh tế trang trại …
Mặt khác vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường ngày nay đang được toàn thể nhân loại quan tâm cùng giải quyết… Kinh tế hộ nông dân với sự tràn lan của các loại thuốc bảo vệ thực vật, của phân bón hoá học… họ sử dụng chưa thật sự đúng theo quy định, sử dụng chưa khoa học và ít kết hợp với các phương pháp truyền thống gây mất cân đối của qui luâtj tự nhiên như chặt phá rừng làm rẫy, gây hạn hán vùng này ngập lụt vùng kia đất đai bị xói mòn bạc màu. Do vậy cần phải kịp thời phổ biến sâu rộng về những tác hại lâu dài trên các phương tiện thông tin đại chúng cho kinh tế hộ nông dân được biết.
Vai trò của kinh tế hộ nông dân như đã nêu ở trên, chúng ta có thể khẳng định kinh tế hộ nông dân sẽ tồn tại và luôn là một thành phần kinh tế quan trọng của mọi quốc gia, sự phát triển của nó không những làm cho đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp ngày càng được khai thác đầy đủ mà còn có tác dụng to lớn thúc đẩy sự phát triển của các thành phần, các ngành kinh tế khác.
Đối tượng sản xuất của kinh tế hộ nông dân có đặc điểm riêng biệt đó là cây trồng và vật nuôi, là những cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh học nhất định. Là cơ thể sống, vì vậy chúng rất nhạy cảm với môi trường tự nhiên, mỗi sự thay đổi về thời tiết, khí hậu, về sự chăm sóc của con người đều có tác động trực tiếp đến quá trình phát sinh và phát triển của chúng, và tất nhiên là ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của sản xuất. Do chúng có đặc điểm như vậy nên muốn đạt được hiệu quả cao nhất thiết phải có sự quan tâm đúng mực, thường xuyên và thực sự sát sao của con người. Mỗi sự biến đổi, thay đổi nhỏ của những cơ thể sống này con người đều phải biết, chúng cần phải được chăm sóc đúng lúc, đúng chỗ, đúng khoa học. Để làm tốt những điều này không một chủ thể nào khác mà chỉ có hộ nông dân đảm đương nổi. Đặc điểm có đó chỉ phù hợp với trách nhiệm, chất lượng của lao động gia đình, phù hợp với kiểu tổ chức sản xuất của kinh tế hộ nông dân.
- Thực tế phát triển kinh tế hộ nông dân đã cho thấy