Chuyên đề Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Thanh Oai, Hà Tây

Công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Nhưng bên cạnh đó nền kinh tế thị trường cũng đã bộc lộ những mặt trái của nó. Sự cạnh tranh gay gắt khiến cho một số cơ sở sản xuất, doanh nghiệp bị phá sản, tình trạng làm ăn mang tính chất lừa đảo dưới nhiều hình thức tinh vi hòng kiếm được lợi nhuận bất chính của một số đối tượng làm cho bộ mặt thị trường ngày càng phức tạp hơn. Trong bối cảnh đó, hoạt động ngân hàng không tránh khỏi sự tác động bởi những mặt trái của thị trường đó là phải đối mặt với nhiều yếu tố rủi ro có thể xảy ra mà khả năng ngăn ngừa và chống đỡ của ngân hàng còn yếu kém. Có thể nói kinh doanh dịch vụ tiền tệ, tín dụng ngân hàng có tính chất đặc thù khác với kinh doanh hàng hoá bình thường. Ngân hàng dễ trở thành nạn nhân của các bạn hàng khi doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ hoặc khi các bạn hàng là nạn nhân của các vụ lừa đảo sẽ mất khả năng trả nợ, dẫn đến rủi ro tín dụng ngân hàng không thu hồi được vốn. Rủi ro tín dụng không phải bây giờ mới có và cũng không phải mãi đến ngày nay người ta mới đề cập. Nó là một khái niệm biểu hiện như sự tuột khỏi tầm tay một sự may mắn nào đó mà lẽ ra có thể có hoặc một sự bất chắc dẫn đến những hậu quả xấu, biết trước hoặc không biết trước, dự đoán đúng hoặc không dự đoán đúng. Cách đặt vấn đề mặc nhiên thừa nhận hoạt động tín dụng luôn luôn có rủi ro tuy nhiên làm thế nào để hạn chế rủi ro là một bài toán nan giải. Bởi vì tính dụng là một nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng Từ những vấn đề nêu trên, qua thời gian công tác thực tập tại Ngân hàng No&PTNT huyện Thanh Oai em đã xem xét và nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng để đưa ra những giải pháp theo ý kiến riêng của mình với sự mong mỏi góp phần nhỏ bé vào mục đích chung của NHNo&PTNT Thanh Oai nói riêng và của toàn ngành nói chung: phòng ngừa rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Mặc dù hoạt động kinh tế của NHNo&PTNT Thanh Oai đạt kết quả tốt, song để phát triển hơn nữa thì cũng cần phải có những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng với mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của chi nhánh trong nền kinh tế thị trường. Việc phòng ngừa rủi ro tín dụng là việc làm hết sức cần thiết và cần được sự quan tâm của các ngân hàng và các cấp các ngành có liên quan chứ không phải đơn thuần là tìm ra các giải pháp để khắc phục những hậu quả do rủi ro tín dụng gây ra. Với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn, và sự hiểu biết của mình, em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây”. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp và rộng lớn đang được nhiều cấp, ngành quan tâm. Song do thời gian thực tập, nghiên cứu còn hạn chế, trình độ của bản thân có hạn cho nên chuyên đề tốt nghiệp này chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy cô để chuyên đề này được hoàn chỉnh. Kết cấu của chuyên đề: - Tên chuyên đề: “Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Thanh Oai, Hà Tây.”

doc64 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Thanh Oai, Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Website: Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368 LỜI NÓI ĐẦU Công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Nhưng bên cạnh đó nền kinh tế thị trường cũng đã bộc lộ những mặt trái của nó. Sự cạnh tranh gay gắt khiến cho một số cơ sở sản xuất, doanh nghiệp bị phá sản, tình trạng làm ăn mang tính chất lừa đảo dưới nhiều hình thức tinh vi hòng kiếm được lợi nhuận bất chính của một số đối tượng làm cho bộ mặt thị trường ngày càng phức tạp hơn. Trong bối cảnh đó, hoạt động ngân hàng không tránh khỏi sự tác động bởi những mặt trái của thị trường đó là phải đối mặt với nhiều yếu tố rủi ro có thể xảy ra mà khả năng ngăn ngừa và chống đỡ của ngân hàng còn yếu kém. Có thể nói kinh doanh dịch vụ tiền tệ, tín dụng ngân hàng có tính chất đặc thù khác với kinh doanh hàng hoá bình thường. Ngân hàng dễ trở thành nạn nhân của các bạn hàng khi doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ hoặc khi các bạn hàng là nạn nhân của các vụ lừa đảo sẽ mất khả năng trả nợ, dẫn đến rủi ro tín dụng ngân hàng không thu hồi được vốn. Rủi ro tín dụng không phải bây giờ mới có và cũng không phải mãi đến ngày nay người ta mới đề cập. Nó là một khái niệm biểu hiện như sự tuột khỏi tầm tay một sự may mắn nào đó mà lẽ ra có thể có hoặc một sự bất chắc dẫn đến những hậu quả xấu, biết trước hoặc không biết trước, dự đoán đúng hoặc không dự đoán đúng. Cách đặt vấn đề mặc nhiên thừa nhận hoạt động tín dụng luôn luôn có rủi ro tuy nhiên làm thế nào để hạn chế rủi ro là một bài toán nan giải. Bởi vì tính dụng là một nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng Từ những vấn đề nêu trên, qua thời gian công tác thực tập tại Ngân hàng No&PTNT huyện Thanh Oai em đã xem xét và nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng để đưa ra những giải pháp theo ý kiến riêng của mình với sự mong mỏi góp phần nhỏ bé vào mục đích chung của NHNo&PTNT Thanh Oai nói riêng và của toàn ngành nói chung: phòng ngừa rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Mặc dù hoạt động kinh tế của NHNo&PTNT Thanh Oai đạt kết quả tốt, song để phát triển hơn nữa thì cũng cần phải có những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng với mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của chi nhánh trong nền kinh tế thị trường. Việc phòng ngừa rủi ro tín dụng là việc làm hết sức cần thiết và cần được sự quan tâm của các ngân hàng và các cấp các ngành có liên quan chứ không phải đơn thuần là tìm ra các giải pháp để khắc phục những hậu quả do rủi ro tín dụng gây ra. Với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn, và sự hiểu biết của mình, em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây”. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp và rộng lớn đang được nhiều cấp, ngành quan tâm. Song do thời gian thực tập, nghiên cứu còn hạn chế, trình độ của bản thân có hạn cho nên chuyên đề tốt nghiệp này chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy cô để chuyên đề này được hoàn chỉnh. Kết cấu của chuyên đề: - Tên chuyên đề: “Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Thanh Oai, Hà Tây.” - Lời nói đầu. - Mục lục Chương 1: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHNO&PTNT HUYỆN THANH OAI, HÀ TÂY. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NHNO&PTNT THANH OAI. - Một số kiến nghị. - Kết luận. CHƯƠNG 1: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ------------------ 1.1 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1 Khái niệm NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ vì mục đích lợi nhuận mà nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Khác với các doanh nghiệp khác, NHTM không trực tiếp tham gia sản xuất và lưu thông hàng hóa, nhưng nó góp phần phát triển nền kinh tế xã hội thông qua việc cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, thực hiện chức năng trung gian thanh toán và dịch vụ Ngân hàng. 1.1.2 Vai trò của ngân hàng thương mại. Cùng với sự nghiệp đổi mới và đi lên của đất nước thì không thể phủ nhận vai trò đóng góp to lớn của ngành Ngân hàng. Ngành Ngân hàng đã có bước chuyển biến mạnh mẽ, tiếp tục đổi mới và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Các NHTM đã hỗ trợ tích cực về vốn đầu tư, là “giá đỡ” về vốn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tăng cường thêm cơ sở vật chất-kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện mức sống của dân cư, ổn định thu chi của Chính phủ. Trong nền kinh tế hiện đại, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì nhu cầu về vốn đổi với việc cải tiến công nghệ kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh rất lớn, nên vai trò của NHTM được phát huy một cách tích cực và có hiệu quả. Các vai trò của NHTM được thể hiện: Thứ nhất: NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: NHTM không những cung ứng tín dụng các loại cho các doanh nghiệp mà còn thông qua chức năng làm trung gian tài chính đã thực hiện việc tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội (nghiệp vụ tiền gửi). Mặt khác, nó dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội khi có nhu cầu bổ sung vốn. Qua đó các doanh nghiệp được đầu tư thêm vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh khi doanh nghiệp có nhu cầu. Đồng thời thông qua các hoạt động của NHTM thực hiện phát hành và tạo nên các công cụ tín dụng thay thế cho tiền mặt làm phương tiện thanh toán, làm hạn chế, giảm khối lượng tiền mặt cần thiết, cung ứng cho lưu thông khi làm trung gian thanh toán, Ngân hàng tạo điều kiện tăng nhanh tốc độ thanh toán, đảm bảo an toàn chi trả, bảo quản và tiết kiệm chi phí lưu thông không cần thiết cho nền kinh tế xã hội. Nhờ vậy mà việc giao lưu hàng hóa của các thành phần kinh tế được thuận tiện, an toàn và có hiệu quả. Cũng do vậy NHTM có thể tư vấn và hỗ trợ đầu tư vốn kịp thời cho hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp lựa chọn và có hướng đi đúng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. Những năm qua, nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng “mở”, song lại có nhiều thách đố đặt ra cần tháo gỡ: một nền công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho xây dựng và phát triển kinh tế vừa thiếu vừa lạc hậu, đội ngũ cán bộ khoa học nhìn chung còn bất cập về số lượng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn eo hẹp chưa đáp ứng ở mức cần thiết nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, tất cả các thành phần kinh tế đều có quyền bình đẳng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Song để cho hoạt động đó có hiệu quả góp phần vào sự phát triển nền kinh tế thì cũng cần phải có vốn đầu tư. Mặt khác, với xu hướng “mở cửa” nền kinh tế, để thu hút các dự án đầu tư, chương trình xây dựng cơ bản, áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến hiện đại thì nhu cầu về vốn cho sản xuất là rất lớn. Khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hóa đất nước, thì một trong những điều kiện tiền đề nhằm phát triển kinh tế là phải có vốn. Trước đây C.Mác cho rằng” “Một mặt ngân hàng là sự tập trung tư bản tiền tệ của những người có tiền cho vay, mặt khác nó là sự tập trung các người đi vay”. Vậy vốn đầu tư của ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng từ buổi sơ khai đến mô hình ngân hàng hiện đại ngày nay. Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường thì không phải các ngân hàng ngồi chờ khách hàng đến xin vay mà phải chủ động đi tìm khách hàng để cho vay, đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng. Với quan điểm đó, các NHTM đã không ngừng mở rộng và phát triển các nghiệp vụ kinh doanh đa dạng và phong phú phục vụ nhu cầu về vốn cho khách hàng. Để đáp ứng đòi hỏi các NHTM đã tham gia vào quá trình tài trợ các dự án đầu tư, các chương trình xây dựng cơ bản, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước bằng nguồn vốn tín dụng của mình. Đồng thời, vốn tín dụng của NHTM là đòn bẩy cho sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi và tạo điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại tiên tiến. Như vậy có thể từ việc đầu tư vốn để mua máy móc thiết bị đầu vào, đến việc tác động tới hiệu quả đồng vốn thì NHTM đã thực sự phát huy vai trò của mình trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước. Ngoài ra, qua các hoạt động nghiệp vụ của NHTM làm tăng cường việc giám sát kỷ luật tài chính quốc gia trong quá trình triển khai và thực thi các hoạt động tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Tóm lại, thông qua nguồn vốn tín dụng của mình, NHTM đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, giúp các thành phần kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư. Thứ hai: NHTM là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương: Với sự phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh, trong đó Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ kiểm soát và quản lý vĩ mô về tiền tệ đối với các công ty tài chính, các NHTM (tổ chức tín dụng) với một mạng lưới rộng khắp để cung ứng tín dụng, và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Vì vậy, thông qua các công cụ như tín dụng, lãi suất, cùng với các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ khác, các NHTM đã góp phần to lớn trong việc thực thi các mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng Trung ương như việc điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, kiểm soát lạm phát và giúp tăng trưởng nền kinh tế ở mức khá cao. Đồng thời, phần lớn các công cụ thực thi chính sách tiền tệ chỉ có hiệu quả khi có sự kết hợp với các hoạt động nghiệp vụ của NHTM như dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho đến các quy chế về thanh toán, cho vay, đầu tư... Mặt khác, với tư cách là nhà tài trợ lớn cho nền kinh tế, NHTM góp phần quan trọng trong việc thực thi các dự án phát triển kinh tế xã hội, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước thông qua nghiệp vụ cho vay, đầu tư, tư vấn... cho quá trình hoạt động đó. Qua các hoạt động nghiệp vụ của NHTM không những là công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương mà còn góp phần tăng cường lực lượng sản xuất, lưu thông hàng hóa được ổn định, mở rộng và phát triển, tăng thu nhập cho nền kinh tế xã hội, thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Đặc biệt đối với Việt nam hiện nay, vị trí và vai trò của các NHTM càng được coi trọng hơn, bên cạnh việc góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn thì nó tạo đà cho xu thế hội nhập nền kinh tế nước nhà vơí nền kinh tế khu vực và thế giới. 1.1.3 Hoạt động của NHTM: 1.1.3.1 Hoạt động tạo lập nguồn vốn: Nguồn vốn của NHTM bao gồm toàn bộ các giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập được từ các chức năng và nghiệp vụ nhận tiền gửi của Ngân hàng. Thông thường nguồn vốn của Ngân hàng được hình thành từ: Thứ nhất: Vốn tự có và coi như tự có của Ngân hàng: Để có thể thành lập một Ngân hàng thì chủ sở hữu phải có một số vốn cần thiết nhất định ban đầu theo pháp luật quy định còn gọi là vốn điều lệ (hay vốn riêng). Nó là cơ sở ban đầu để hình thành và giúp Ngân hàng đi vào hoạt động, tuy nhiên nó thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ dưới 10% trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Vốn này được gia tăng trong quá trình hoạt động kinh doanh bằng cách trích từ lợi nhuận, hoặc bằng cách tăng mức đóng góp của các chủ sở hữu. Bên cạnh vốn điều lệ, các NHTM còn phải trích lập các quỹ dự trữ như: quỹ dự trữ thông thường, quỹ dự trữ đặc biệt... Quỹ dự trữ thông thường là quỹ được trích lập từ lợi nhuận hàng năm để bổ sung cho vốn lưu động khi đã đạt được một quy mô nhất định. Ngoài ra, NHTM còn có vốn coi như tự có được thể hiện như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao TCSĐ... Thứ hai: Hoạt động huy động vốn trong xã hội: Với chức năng làm trung gian tài chính nên các NHTM đã thực hiện huy động vốn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội. Để có tiền cho vay, đầu tư và kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế trên các lĩnh vực khác nhau thì đòi hỏi các NHTM không thể chỉ dựa vào vốn tự có của mình mà phải huy động vốn trên thị trường. Đây là một hoạt động quan trọng hàng đầu của mỗi NHTM, bởi vì thông thường nguồn vốn huy động này chiếm tỷ trọng rất lớn trong nguồn vốn của NHTM (70%-80%). Từ hoạt động này đã hình thành và tạo lập nên nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh của bất kỳ một NHTM nào. NHTM huy động vốn dưới các hình thức như: nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán... trong đó tiền gửi bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Với loại tiền gửi không kỳ hạn thì khách hàng có thể gửi và rút ra một cách dễ dàng, tuỳ theo nhu cầu của họ nên nguồn vốn này thường xuyên biến động dễ dẫn đến rủi ro, nhưng nó lại là nguồn vốn quan trọng. Còn tiền gửi có kỳ hạn nó tạo nên nguồn vốn khá ổn định cho NHTM. Ngoài ra NHTM còn phát hành thêm chứng chỉ tiền gửi như trái phiếu ngân hàng, kỳ phiếu... Một nguồn vốn quan trọng khác trong hoạt động huy động vốn của các NHTM là nguồn vốn đi vay ngân hàng khác ở trong và ngoài nước. Hay vốn tạo được qua việc làm trung gian thanh toán. Thứ ba: Nguồn vốn đi vay của Ngân hàng khác: Nguồn vốn đi vay của các Ngân hàng khác là nguồn vốn được hình thành bởi các mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng với NHTW. Nguồn vốn này bao gồm: - Nguồn vốn đi vay của các tổ chức tín dụng: Trong quá trình kinh doanh của bất kì một doanh nghiệp nào cũng có lúc phát sinh tình trạng tạm thời thừa thốn. Và ngược lại cũng phát sinh tình trạng tạm thời thiếu vốn. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng không tránh khỏi tình trạng đó. Đối với Ngân hàng, cũng có lúc Ngân hàng tập trung huy động được vốn nhưng lại không cho vay hết, trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi. Tương tự, có thời điểm nhu cầu cho vay vốn lớn nhưng khả năng nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được lại không đáp ứng đủ. Vì vậy, trong những trường hợp đi Ngân hàng có thể đi vay của ngân hàng khác có phát sinh tình trạng thừa vốn để nhằm khôi phục khả năng thanh toán của mình. - Nguồn vốn vay của NHTW: NHTW đóng vai trò là Ngân hàng của các Ngân hàng, là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Vì vậy khi có nhu cầu, các NHTM sẽ được NHTW cho vay vốn. Việc cho vay của NHTW đối với các NHTM thông qua hình thức tái cấp vốn. Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của NHTW nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các NHTM. Thứ tư: Các nguồn vốn khác: Các nguồn vốn này được hình thành khi NHTM thực hiện các dịch vụ Ngân hàng cụ thể. Vốn uỷ thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ hoặc của nước ngoài để đầu tư cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong khoảng thời gian từ khi Ngân hàng nhận vốn uỷ thác đầu tư, tài trợ mà chưa giải ngân hết là thời gian vốn nhàn rỗi do đó NHTM có thể huy động làm nguồn vốn để kinh doanh. 1.1.3.2 Hoạt động sử dụng vốn: Trong nền kinh tế thị trường, NHTM thực chất cũng là một doanh nghiệp, vì vậy mọi hoạt động kinh doanh của nó đều phải coi lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng. Để tạo ra lợi nhuận và thu nhập cho Ngân hàng thì các NHTM phải biết sử dụng và khai thác nguồn vốn một cách triệt để, một cách có hiệu quả. Các hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của NHTM bao gồm: hoạt động cho vay, đầu tư, phục vụ nhu cầu chi trả cho khách hàng... Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu nhất của NHTM với nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo đối tượng vay vốn. Nếu căn cứ vào thời hạn cho vay thì có cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn... Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiều hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Cho vay trung và dài hạn: Là loại cho vay để thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội hoặc các nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp như mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ. Một mặt nó đáp ứng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của xã hội về mở rộng ngành nghề sản xuất kinh doanh cũng như đầu tư xây dựng cơ bản. Mặt khác chúng cũng còn phù hợp với khả năng huy động vốn ngày một tăng lên của NHTM và nhu cầu sử dụng vốn của xã hội. Hoạt động đầu tư của NHTM thể hiện dưới các hình thức như: mua chứng khoán, trái phiếu của Chính phủ hoặc của doanh nghiệp và các nghiệp vụ liên doanh liên kết. Một hoạt động nữa trong việc khai thác và sử dụng nguồn vốn của NHTM là hoạt động ngân quỹ. Hoạt động này phục vụ cho việc chi trả, thanh toán đối với các khách hàng qua nghiệp vụ: quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các Ngân hàng khác và NHNN, hoặc các nghiệp vụ chứng khoán ngắn hạn. Trong điều kiện nền kinh tế mở có xu thế hội nhập với nền tài chính tiền tệ khu vực và quốc tế, các NHTM hiện nay cũng rất chú trọng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ như: nhận tiền gửi và cho vay bằng ngoại tệ, mua bán ngoại tệ, làm dịch vụ thanh toán quốc tế... Ngoài các hoạt động cơ bản trên thì NHTM còn làm dịch vụ uỷ thác hay còn gọi là hoạt động trung gian của NHTM. Nó bao gồm các hoạt động như thanh toán tiền hàng, cung cấp thông tin và tư vấn kinh doanh... các hoạt động này được thực hiện trên cơ sở uỷ thác của khách hàng, để hưởng thù lao. Qua các hoạt động trên của NHTM ta thấy, hoạt động cho vay là một trong các hoạt động lớn nhất và chủ yếu nhất của NHTM, là nơi để điều chuyển vốn từ nơi tạm thời thừa đến nơi tạm thời thiếu, vì vậy lợi nhuận của Ngân hàng chủ yếu là thu từ lãi cho vay là chiếm tỷ trọng lớn nhất. Hơn nữa, hiện nay các NHTM có thể huy động rất lớn nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế qua nhiều hình thức, vì vậy các Ngân hàng phải tìm cách để cho vay hết số vốn đó, một mặt là đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng được diễn ra bình thường, mặt khác để đảm bảo thanh toán cho số tiền huy động đó khi đến hạn. Vậy nên hiệu quả trong hoạt động cho vay quyết định đến hiệu quả hoạt động nói chung của Ngân hàng. Do hoạt động cho vay được coi là hoạt động quan trọng nhất nên ở khâu này bao giờ cũng gắn liền với các rủi ro, thậm chí bị tổn thất. Mặc dù khi cho vay bao giờ Ngân hàng cũng thực hiện các bảo đảm để tối thiểu các rủi ro có liên quan đến tiền vay như: phân tích khách hàng quy định mức cho vay, yêu cầu thế chấp, thỏa thuận tiền vay, trả nợ... Nhưng dẫu sao Ngân hàng cũng không thể đánh giá được hết các bất ngờ, rủi ro một cách chính xác được. Bởi lẽ, việc cho vay vẫn phần lớn phụ thuộc vào chủ quan của Ngân hàng và trên cơ sở các thông tin đã qua, nhưng việc cho vay và hứa hẹn trả nợ ở tương lai. Hơn nữa, ngay cả bản thân các khách hàng cũng có thể gặp phải các rủi ro, nên việc thực hiện nghĩa vụ với Ngân hàng không thể là điều chắc chắn. Vậy nếu như Ngân hàng giảm thấp rủi ro trong hoạt động cho vay thì hiệu quả đạt được ở hoạt động này là cao. Cũng chính vì vậy mà hiệu quả hoạt động nói chung của Ngân hàng được đảm bảo cao. Qua sự trình bày ở trên, ta thấy rằng đảm bảo an toàn cho việc khai thác và sử dụng nguồn vốn là một vấn đề hết sức quan trọng đối với các Ngân hàng. Bởi vì một mặt Ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của khách hàng và đồng thời cũng phải đảm bảo khả năng tái đầu tư và nhu cầu chi trả của chính bản thân Ngân hàng. Điều đó có nghĩa là các Ngân hàng phải đảm bảo an toàn cho các tài sản mà trước hết là các đảm bảo cho vay. Bởi vậy cho vay, đầu tư hoặc nghiệp vụ ngân quỹ có nhiều liên quan đến việc sử dụng vốn và ý thức hoàn trả nợ từ phía khách hàng. Tóm lại, để đảm bảo khả năng tồn tại và phát triển đòi hỏi các Ngân hàng cần phải thực hiện tốt mọi khâu, mọi nghiệp vụ trong quá trình hoạt động và có thể nói hoạt động kinh doanh của NHTM đã và đang tìm kiếm các cơ hội để tìm cách thu lợi nhuận được nhiều hơn qua hoạt động tạo lập, tăng trưởng nguồn vốn và khai thác, sử dụng nguồn vốn đó một cách hiệu quả. Tại báo cáo chính trị của Đại hội Đản
Tài liệu liên quan