Chuyên đề Nâng cao chất lượng cho vay hộ nông dân tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Chí Linh - Tỉnh Hải Dương

Sau khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới -WTO, từng bước hòa nhập vào nền kinh tế sôi động của thế giới thì thị trường tài chính nói chung và các ngân hàng nói riêng có những cơ hội thuận lợi cũng như phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn, cơ hội được tiếp xúc với khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại và thị trường rộng lớn, đa dạng; đồng thời theo nó cũng là thách thức của sự cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi các ngân hàng phải vươn lên, tự khẳng định mình với vị thế sân nhà và lớn hơn nữa là với thị trường quốc tế. Tất cả những doanh nghiệp, dù là trong lĩnh vực nào nếu không đáp ứng được những đòi hỏi trên thì việc sẽ khó khăn trong hoạt động kinh doanh là khó tránh khỏi. Các ngân hàng nước ta hầu hết đều khá lạc hậu so với các nước tiên tiến trên thế giới, lạc hậu về công nghệ, về trình độ, vì vậy mà việc cạnh tranh cũng không phải là dễ dàng. NHNo Chí Linh đã và đang phải cạnh tranh với các ngân hàng khác nhau trên địa bàn, có cả chi nhánh ngân hàng trong nước và cả chi nhánh của ngân hàng nước ngoài, vì vậy việc phải từng bước hoàn thiện công tác tổ chức cũng như nghiệp vụ phục vụ khách hàng để phát huy và tăng cường lợi thế của chi nhánh là một việc hết sức quan trọng và cần thiết. Ở một địa bàn có hơn 95% số vốn xin vay là để sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ thì chứng tỏ kinh tế hộ nông dân là một mảng hết sức quan trọng với ngân hàng, việc phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, vì vậy việc nâng cao chất lượng cho vay hộ nông dân là một trong những vấn đề được đặc biệt chú ý. Trên địa bàn huyện Chí Linh có 9 Quỹ Tín dụng nhân dân, 5 Ngân hàng Thương mại Quốc doanh (Ngân hàng Đầu t¬ư & Phát triển - BIDV, Ngân hàng Nhà Đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng công thương - Incombank, Ngân hàng Ngoại thương - Vietcombank và Ngân hàng No&PTNT Chí Linh), 2 chi nhánh Ngân hàng Cổ phần (Sacombank, Ocean Bank), cần phải lưu ý rằng một số ngân hàng đã lắp đặt máy rút tiền tự động – ATM để phục vụ khách hàng của mình trong khi NHNo Chí Linh lại chưa trang bị phương tiện này, ngoài ra còn có Ngân hàng chính sách xã hội. Đây thực sự là khó khăn lớn đối với NHNo Chí Linh nên đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của tất cả các cán bộ nhân viên ngân hàng trong việc tự hoàn thiện mình để thu hút khách hàng và phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. NHNo Chí Linh xác định: “Mở rộng tín dụng phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng tín dụng”. Sau một thời gian thực tập tại ngân hàng, nhận thấy hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng là cho vay, chủ yếu là cho vay hộ nông dân, tuy đã đạt được nhữnh thành tích hết sức quan trọng, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số bất cập cần khác phục và hoàn thiện nên tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng cho vay hộ nông dân tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Chí Linh - tỉnh Hải Dương” cho chuyên đề tốt nghiệp, vừa là để học hỏi, tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này cũng như đề xuất các giải pháp thực tiễn để góp phần giúp hoạt động cho vay của ngân hàng đạt chất lượng tốt hơn, thu hút nhiều khách hàng và nâng cao vị thế của mình.

doc65 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng cho vay hộ nông dân tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Chí Linh - Tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sau khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới -WTO, từng bước hòa nhập vào nền kinh tế sôi động của thế giới thì thị trường tài chính nói chung và các ngân hàng nói riêng có những cơ hội thuận lợi cũng như phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn, cơ hội được tiếp xúc với khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại và thị trường rộng lớn, đa dạng; đồng thời theo nó cũng là thách thức của sự cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi các ngân hàng phải vươn lên, tự khẳng định mình với vị thế sân nhà và lớn hơn nữa là với thị trường quốc tế. Tất cả những doanh nghiệp, dù là trong lĩnh vực nào nếu không đáp ứng được những đòi hỏi trên thì việc sẽ khó khăn trong hoạt động kinh doanh là khó tránh khỏi. Các ngân hàng nước ta hầu hết đều khá lạc hậu so với các nước tiên tiến trên thế giới, lạc hậu về công nghệ, về trình độ, vì vậy mà việc cạnh tranh cũng không phải là dễ dàng. NHNo Chí Linh đã và đang phải cạnh tranh với các ngân hàng khác nhau trên địa bàn, có cả chi nhánh ngân hàng trong nước và cả chi nhánh của ngân hàng nước ngoài, vì vậy việc phải từng bước hoàn thiện công tác tổ chức cũng như nghiệp vụ phục vụ khách hàng để phát huy và tăng cường lợi thế của chi nhánh là một việc hết sức quan trọng và cần thiết. Ở một địa bàn có hơn 95% số vốn xin vay là để sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ thì chứng tỏ kinh tế hộ nông dân là một mảng hết sức quan trọng với ngân hàng, việc phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, vì vậy việc nâng cao chất lượng cho vay hộ nông dân là một trong những vấn đề được đặc biệt chú ý. Trên địa bàn huyện Chí Linh có 9 Quỹ Tín dụng nhân dân, 5 Ngân hàng Thương mại Quốc doanh (Ngân hàng Đầu tư & Phát triển - BIDV, Ngân hàng Nhà Đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng công thương - Incombank, Ngân hàng Ngoại thương - Vietcombank và Ngân hàng No&PTNT Chí Linh), 2 chi nhánh Ngân hàng Cổ phần (Sacombank, Ocean Bank), cần phải lưu ý rằng một số ngân hàng đã lắp đặt máy rút tiền tự động – ATM để phục vụ khách hàng của mình trong khi NHNo Chí Linh lại chưa trang bị phương tiện này, ngoài ra còn có Ngân hàng chính sách xã hội. Đây thực sự là khó khăn lớn đối với NHNo Chí Linh nên đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của tất cả các cán bộ nhân viên ngân hàng trong việc tự hoàn thiện mình để thu hút khách hàng và phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. NHNo Chí Linh xác định: “Mở rộng tín dụng phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng tín dụng”. Sau một thời gian thực tập tại ngân hàng, nhận thấy hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng là cho vay, chủ yếu là cho vay hộ nông dân, tuy đã đạt được nhữnh thành tích hết sức quan trọng, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số bất cập cần khác phục và hoàn thiện nên tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng cho vay hộ nông dân tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Chí Linh - tỉnh Hải Dương” cho chuyên đề tốt nghiệp, vừa là để học hỏi, tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này cũng như đề xuất các giải pháp thực tiễn để góp phần giúp hoạt động cho vay của ngân hàng đạt chất lượng tốt hơn, thu hút nhiều khách hàng và nâng cao vị thế của mình. 2. Phạm vi nghiên cứu Thực trạng chất lượng cho vay hộ nông dân tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Chí Linh - Hải Dương giai đoạn 2005 đến nay và đưa ra các ý kiến đề xuất nhằm góp phần nâng cao chất lượng cho vay của chi nhánh trong những năm tiếp theo. 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chính là lấy số liệu và tổng hợp, phân tích, so sánh qua các năm và với các đơn vị khác cùng ngành, cùng địa bàn. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 1.1. Khái niệm và phân loại Khái niệm: Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể (NHTM và người vay), trong đó một bên(NHTM) chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia (người vay) sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả vốn (cả gốc và lãi) cho bên cho vay vô điều kiện theo thời hạn đã thỏa thuận. Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại là tài trợ cho khách hàng dựa trên cơ sở tín nhiệm gọi là hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng được phân chia thành nhiều loại khác nhau, theo những cách khác nhau tùy theo nhu cầu của khách hàng hay mục tiêu quản lý của ngân hàng. Có những cách phân loại thường dùng như sau: 1.1.1. Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng) Phân chia theo thời gian là cách ngân hàng hay sử dụng, nó liên quan trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng, tính sinh lời hay rủi ro, khả năng hoàn trả của khách hàng cũng như khả năng thanh khoản của ngân hàng. Vì vậy mà phân chia theo thời hạn tín dụng cần phải tuân thủ quy tắc rất nghiêm túc và chặt chẽ. Theo thời gian, tín dụng được phân chia thành tín dụng ngắn, trung và dài hạn như sau: Tín dụng ngắn hạn: các khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng trở xuống Tín dụng trung hạn: các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm Tín dụng dài hạn: các khoản tín dụng có thời hạn trên 5 năm Các khoản tín dụng có thời hạn khác nhau sẽ được áp dụng các mức lãi suất khác nhau, theo nguyên tắc thời gian càng dài thì rủi ro càng cao nên lãi suất vì thế cũng tăng theo, áp dụng đối với cả hoạt động huy động vốn cũng như hoạt động cho vay. Thông thường, ngân hàng sử dụng một nguồn nào đó để cho vay các khoản có thời hạn tín dụng tương ứng với nó, ví dụ nguồn trung và dài hạn thường cấp cho các khoản vay trung, dài hạn, trong trường hợp thiếu hụt nguồn tương ứng, ngân hàng sẽ chuyển một phần từ nguồn khác sang nhưng với một tỷ lệ quy định cho phép để đảm bảo khả năng thanh khoản cho ngân hàng. 1.1.2. Phân loại theo tài sản bảo đảm Theo tài sản bảo đảm, tín dụng được phân chia thành tín dụng có bảo đảm bằng tài sản và tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản. Tài sản bảo đảm là một hình thức đảm bảo cho ngân hàng có thể thu được nợ, theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tài sản bảo đảm là hình thức để ngân hàng có thể chắc chắn thu được nợ, là nguồn trả nợ thứ hai của người vay, trong trường hợp nguồn thứ nhất (nguồn từ kết quả sản xuất kinh doanh) vì nguyên do nào đó mà không có để trả hoặc trả không đủ vốn (cả gốc và lãi) cho ngân hàng. Tài sản bảo đảm thường áp dụng khi cho vay với những khách hàng có uy tín không cao đối với ngân hàng, khả năng gặp rủi ro lớn hay những khách hàng mới giao dịch lần đầu, nhưng hiện nay các ngân hàng thường đều áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản để hạn chế rủi ro mất vốn trong hoạt động kinh doanh của mình. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản của người vay, của bên bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ trả nợ, có thể là tài sản thuộc quyền sở hữu của người đó, giá trị quyền sử dụng đất của người đó (bao gồm người vay và bên bảo lãnh), tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của khách hàng vay, của bên bảo lãnh (nếu là doanh nghiệp nhà nước) hoặc là chính tài sản hình thành từ vốn vay, trong trường hợp này thì tài sản bảo đảm khi đi vay của khách hàng chính là tài sản hình thành trong tương lai. Tín dụng không có tài sản bảo đảm có thể được dùng khi cho vay với những khách hàng có uy tín cao, thường xuyên giao dịch với ngân hàng, làm ăn có lãi, tình hình tài chính lành mạnh, hoặc trường hợp món vay là nhỏ so với vốn của khách hàng. Tín dụng không có tài sản bảo đảm là việc ngân hàng cho khách hàng của mình vay mà không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, vì thế mà ngân hàng cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng. Hiện nay, theo Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính Phủ, không quy định cụ thể khách hàng được vay không có bảo đảm bằng tài sản, về vấn đề này tuỳ theo các TCTD khác nhau mà có các quy định khác nhau, chẳng hạn như NHNo&PTNT Việt Nam có quyết định 1300/QĐ-HĐQT-TDHo ngày 03 tháng 12 năm 2007, trong đó tại điều 2 có giao quyền lựa chon, quyết định việc cho vay có bảo đảm hay không có bảo đảm bằng tài sản cho Giám đốc chi nhánh. Nói chung khách hàng muốn vay vốn không cần bảo đảm bằng tài sản thì phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn trong quan hệ vay vốn với tổ chức tín dụng cho vay hoặc các tổ chức tín dụng khác. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu quả, hoặc có dự án đầu tư phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định của pháp luật. Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng, cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp đảm bảo bằng tài sản quy định tại điểm này. Như vậy, ta có thể nhận thấy rằng những khách hàng được vay theo hình thức không có tài sản bảo đảm phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ và cụ thể, vì hình thức này tiềm ẩn rủi ro rất cao. Đối với những khoản cho vay theo chỉ thị của chính phủ thì không cần có tài sản bảo đảm, hay những khoản vay với các tổ chức tài chính, các công ty lớn uy tín cao cũng vậy. Nói chung phần lớn những khách hàng này là những khách hàng có uy tín cao với ngân hàng nên nếu số khách hàng vay với hình thức này càng nhiều thì càng chứng tỏ hoạt động hiệu quả của ngân hàng, trong thẩm định cũng như trong quan hệ với khách hàng. 1.1.3. Phân loại theo rủi ro Các ngân hàng phân chia các mức độ rủi ro khác nhau từ thấp đến cao và căn cứ vào đó để phân loại tín dụng. Cách phân loại này tuy khó khăn cho ngân hàng trong công tác thực hiện, vì phải phân loại lại sau mỗi kỳ kinh doanh, theo đó mà tính điều chỉnh lãi suất, nhưng cũng lại rất dễ dàng cho ngân hàng trong việc đánh giá tính an toàn của các khoản cho vay, từ đó mà có phương án và thực hiện việc trích lập dự phòng cũng như xử lý các khoản tín dụng rủi ro một cách kịp thời. Phân loại theo rủi ro phân chia các khoản tín dụng thành 5 nhóm nợ với tỷ lệ trích lập dự phòng tổn thất như sau: Bảng 1.1: Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro (Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của NHNN VN) Chỉ tiêu Nhóm Tiêu chí xếp loại Tỷ lệ trích lập dự phòng 1 Nợ đủ tiêu chuẩn: Các khoản nợ có khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn 0% 2 Nợ cần chú ý: Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày 5% 3 Nợ dưới tiêu chuẩn: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến dưới 180 ngày 20% 4 Nợ nghi ngờ: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày 50% 5 Nợ có khả năng mất vốn: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày 100% Việc phân chia nhóm và trích lập dự phòng như vậy giúp ngân hàng chủ động được trước những rủi ro và khi chúng xảy ra thì không làm ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của ngân hàng. Ngoài những cách phân loại trên, ngân hàng có thể phân loại theo một số phương thức khác như sau: Theo ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, …). Theo đối tượng khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp…). Phương thức cho vay (từng lần, hạn mức, thấu chi…) Theo số lượng các bên tham gia (trực tiếp, gián tiếp, đồng tài trợ…) Theo mục đích sử dụng (tiêu dùng, kinh doanh, tài trợ dự án,…). Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng của ngân hàng, càng phân chia thành nhiều nhóm nhỏ thì càng chứng tỏ đối tượng của ngân hàng là đa dạng, hay cũng có những ngân hàng chỉ chú tâm vào một đối tượng khách hàng, ví dụ như khách hàng nhỏ (ngân hàng bán lẻ), …trường hợp này thì lại chứng tỏ được tính chuyên môn hóa cao của ngân hàng. 1.2. Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM Cho vay là một hoạt động có vai trò vô cùng quan trọng đối với cả ngân hàng và với nền kinh tế nói chung. 1.2.1. Đối với Ngân hàng Cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng thương mại. Để đảm bảo NHTM có thể duy trì và phát triển bền vững thì đòi hỏi hoạt động cho vay của ngân hàng phải an toàn và hiệu quả. Thông qua cho vay, ngân hàng có thể mở rộng các mối quan hệ và vị thế của mình để có thể thu hút nhiều khách hàng hơn, nhằm thu được nhiều lợi nhuận hơn. Một khách hàng được ngân hàng phục vụ, vị khách đó hài lòng, giới thiệu cho bạn bè, người thân, thì chắc chắn ngân hàng sẽ có lợi thế hơn so với các ngân hàng khác. 1.2.2. Đối với nền kinh tế Hoạt động cho vay của ngân hàng giúp điều tiết vốn trong nền kinh tế, luân chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, từ những người có vốn đến những người có nhu cầu sử dụng vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống. Vì vậy mà cho vay là hoạt động có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế. NHTM giữ vai trò thu hút vốn từ nguồn nhàn rỗi và dùng nó để tài trợ cho các hoạt động khác. Nhờ đó mà những người có vốn nhàn rỗi vừa được an toàn cho tiền của mình lại vừa có thêm một khoản lợi nhuận từ phần lãi thu được. Hoạt động này làm nền tảng cho hoạt động cho vay, những người có nhu cầu sử dụng thì có được nguồn tài chính kịp thời để thực hiện việc của mình. Qua hoạt động cho vay, NHTM giữ vai trò trung gian giữa các ngành kinh tế khác nhau, giữa những cá nhân trong nền kinh tế với nhau, là cầu nối điều tiết để nguồn vốn trong nền kinh tế luôn có sự vận động và quay vòng. Hạn chế các hiện tượng xấu trong xã hội như cho vay nặng lãi, tín dụng “đen”… giúp những người cần vốn không còn quá khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn mà lại chỉ phải trả một mức lãi suất bình quân với nền kinh tế. Việc cho vay của NHTM góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, những người, những doanh nghiệp có nhu cầu sản xuất hoặc mở rộng sản xuất mà không đủ vốn thì đã có ngân hàng. Việc sản xuất hàng hóa diễn ra ngày càng mở rộng và đạt hiệu quả làm cho nền kinh tế của đất nước nói chung càng ngày càng phát triển. 1.3. Những điều cần chú ý trong hoạt động cho vay của NHTM 1.3.1. Nguyên tắc cho vay Nguyên tắc cho vay có hiệu quả là điều kiện tối quan trọng để ngân hàng có thể duy trì sự tồn tại và phát triển ổn định. Để đạt được điều này thì hoạt động cho vay của ngân hàng phải lành mạnh và hiệu quả. Muốn vậy, các cán bộ tín dụng phải thực hiện tốt việc thẩm định khả năng hoàn trả của người xin vay trước khi đồng ý cho họ vay. Đồng thời trong quá trình kiểm tra, kiểm soát phải đảm bảo tính độc lập và tuân thủ đúng quy trình cho vay, việc cho vay phải được tiến hành trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ các quy định có liên quan. Ngân hàng chỉ cho vay khi khách hàng đảm bảo được các nguyên tắc sau: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng. Đây là nguyên tắc cơ bản và đòi hỏi việc thực hiện chặt chẽ, vì khách hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích, thực hiện đúng phương án đã đưa ra thì mới có khả năng thu hồi được vốn để trả cho ngân hàng, đồng thời có lãi để phục vụ cho đời sống của mình, tiếp tục việc sản xuất. Quy định này nhằm hạn chế rủi ro đạo đức có thể xảy ra khi khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, trong một số trường hợp còn có thể là thực hiện các hành vi trái với pháp luật. Khách hàng phải đảm bảo hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn. Bởi ngân hàng cũng là người đi vay của dân cư hay một chủ thể nào khác và phải hoàn trả cho họ khi đến hạn. Khi ngân hàng cho vay, họ phải tính toán xem sử dụng nguồn nào là hợp lý để có thể thu được hiệu quả tốt nhất, thường là kỳ hạn của món vay giống với kỳ hạn của nguồn thì sẽ là tốt nhất. Vì vậy mà khi món vay đến hạn, nếu khách hàng không trả được nợ hoặc trả không đủ thì chắc rằng hoạt động của ngân hàng sẽ ít nhiều bị ảnh hưởng, nếu số lượng các món vay như vậy là nhiều và lượng vốn lại lớn thì chắc chắn ngân hàng sẽ gặp rắc rối. 1.3.2. Điều kiện vay vốn Điều kiện vay vốn là những quy định cụ thể của ngân hàng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn và ngân hàng chỉ cho vay đối với những khách hàng đáp ứng được các điều kiện này. Thông thường, điều kiện vay vốn bao gồm: Địa vị pháp lý của khách hàng: Khách hàng vay vốn phải có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Khách hàng của ngân hàng là đa dạng và có địa vị pháp lý khác nhau nên tùy từng khách hàng cụ thể mà ngân hàng lại có những quy định riêng phù hợp với quy định chung của pháp luật. Có khả năng tài chính và đảm bảo trả nợ đúng hạn (cả gốc và lãi) theo hợp đồng tín dụng đã ký kết với ngân hàng. Mục đích sử dụng vốn vay là hợp pháp: Khách hàng không được vay vốn ngân hàng để sử dụng cho các mục đích mà pháp luật cấm như: mua sắm tài sản mà pháp luật cấm chuyển nhượng, tiến hành các giao dịch bị pháp luật cấm. Có tài liệu đủ để chứng minh khả năng sử dụng vốn vay phù hợp với quy định của pháp luật (phương án kinh doanh, …) và khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Trên cơ sở các điều kiện chung trên, căn cứ vào tính chất, quy mô, đối tượng vay vốn mà ngân hàng sẽ quy định cụ thể điều kiện vay vốn đối với từng đối tượng. 1.3.3. Đối tượng cho vay Mục đích hoạt động cho vay của các NHTM là nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp pháp của khách hàng, thông qua đó tìm kiếm lợi nhuận, nhưng không phải khách hàng nào cũng được ngân hàng cho vay. Ngân hàng chỉ cho vay những nhu cầu hợp pháp, phù hợp với quy định của pháp luật. Ở nước ta, theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN quy định Luật các tổ chức tín dụng và quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của QĐ số 1627 thì Tổ chức tín dụng không được cho vay các nhu cầu vốn để: Mua sắm các tài sản và chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán. chuyển nhượng, chuyển đổi. Thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm. Đáp ứng các nhu cầu tài chính của các giao dịch mà pháp luật cấm. 1.3.4. Quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay Hoạt động cho vay của ngân hàng luôn tiềm ẩn rất nhiều những rủi ro khác nhau, vì thế mà để đảm bảo hoạt động cho vay có hiệu quả thì pháp luật cũng có những quy định chặt chẽ để đảm bảo an toàn trong cho vay. Quy định đầu tiên và cần thiết nhất là hoạt động cho vay của ngân hàng phải lành mạnh và có hiệu quả. Vì thế, ngân hàng phải thực hiện tốt việc kiểm tra, đánh giá khả năng hoàn trả của người đi vay trước khi cho vay và trong quá trình người đó sử dụng vốn vay, người vay phải đáp ứng được các điều kiện vay như đã trình bày. Các hạn chế để đảm bảo an toàn tín dụng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện cho vay, bởi nó quy định giới hạn cho vay của ngân hàng với mỗi khách hàng, mỗi lĩnh vực, nhờ đó mà ngân hàng tránh được rủi ro lớn và phân tán được rủi ro. Các biện pháp đảm bảo trong cho vay nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. 1.3.5. Hợp đồng Hợp đồng tín dụng là văn bản pháp lý thể hiện mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và người vay, là cơ sở để ngân hàng thực hiện việc cho vay, quản lý các khoản vay, thu hồi nợ và xử lý các tranh chấp nếu xảy ra. Vì vậy mà hợp đồng phải quy định cụ thể, rõ ràng các nội dung chính như sau: Điều kiện vay Mục đích sử dụng tiền vay Hình thức vay Số tiền vay Lãi suất Thời hạn vay Hình thức bảo đảm Giá trị tài sản bảo đảm Phương thức trả nợ Và các cam kết khác được các bên thoả thuận. Nội dung của hợp đồng phải logic, thống nhất, phản ánh đầy đủ điều khoản và điều kiện tín dụng, quyền và nghĩa vụ giữa các bên, cam kết giữa các bên và phải tuân thủ tuyệt đối các quy định pháp lý đã được quy định. Hợp đồng chỉ có hiệu lực thi hành khi được ngân hàng va khách hàng ký tên chấp thuận. 1.3.6. Xét duyệt cho vay, kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn vay Đây là khâu quan trọng để đảm bảo hiệu quả của hoạt động cho vay, để thực hiện tốt giai đoạn này có nhiều cách thức khác nhau nhưng nhìn chung các ngân hàng hay sử dụng các biện pháp cơ bản như sau: Thực hiện kiểm soát và xem xét định kỳ tất cả các loại hình cho vay. Kiểm soát thường xuyên các khoản cho vay lớn. Tổ chức quá trình kiểm soát để đảm bảo xem xét và đánh giá được tất cả những đặc tính quan trọng nhất của mỗi khoản cho vay. Theo dõi thường xuyên các khoản vay có vấn đề Tăng cường các biện pháp kiểm soát tín dụng. Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nếu được tổ chức thực hiện tốt thì hoạt động cho vay sẽ được diễn ra lành mạnh và đạt hiệu quả cao. 2. Chất lượng cho vay của NHTM 2.1.
Tài liệu liên quan