Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam

Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đang ngày càng hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới, mở ra những cơ hội phát triển lớn cho tất cả các thành phần kinh tế, nhưng cùng với đó là sự tăng lên của những rủi ro. Vì vậy, nhu cầu hạn chế, khắc phục những rủi ro trong kinh doanh trở thành một đòi hỏi cấp bách của nền kinh tế. Theo đó hàng loạt các công cụ phòng ngừa rủi ro kinh doanh đã ra đời ở nước ta và một trong số đó là bảo lãnh ngân hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng ra đời như một phương tiện phòng ngừa rủi ro góp phần không nhỏ vào việc thông suốt quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bằng cách đảm bảo tư cách của các bên trong quan hệ hợp đồng, từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong quá trình hội nhập khu vực và thế giói. Không những thế nghiệp vụ bảo lãnh cón có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao vai trò, uy tín của hệ thống ngân hàng, khẳng định vị thế cũng như khả năng thích nghi phát triển của các nghiệp vụ ngân hàng đáp ứng đòi hỏi khách quan của nền kinh tế. Hoạt động bảo lãnh ra đời và ngày càng trở nên quan trọng trong các giao dịch, quan hệ giữa các thành phần kinh tế, tuy nhiên bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động còn mới so với các hoạt động truyền thống khác của ngân hàng. Do vậy, nghiệp vụ bảo lãnh vẫn cần được hoàn thiện và cần phải nâng cao chất lượng trong việc thực hiện tại ngân hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng không chỉ mang lại lợi nhuận cao hơn cho ngân hàng mà quan trọng hơn đó là tạo ra sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng và tính thực tiễn của việc nghiên cứu, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội, đề tài: “Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam” đã được lựa chọn để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Với mục đích nghiên cứu nhằm để hiểu sâu sắc hơn những vấn đề lý thuyết về bảo lãnh ngân hàng và vận dụng vào nghiên cứu thực tế, nội dung chuyên đề thực tập sẽ bao gồm ba phần chính như sau: Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG. Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP KỸ THƯƠNG VIỆT NAM Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP KỸ THƯƠNG VIỆT NAM Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của TS. Đặng Ngọc Đức và các anh chị trong phòng Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội đã giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập này.

doc82 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NHTM: Ngân hàng thương mại NHNN: Ngân hàng Nhà nước TMCP: thương mại cổ phần TSĐB: Tài sản đảm bảo TMQT: Thương mại quốc tế CVKH: Chuyên viên khách hàng Ban KS&HTKD: Ban Kiểm soát và Hỗ trợ kinh doanh DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẲNG BIỂU Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các bên trong bảo lãnh ngân hàng. Sơ đồ 1.2: Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh Sơ đồ 1.3: Bảo lãnh trực tiếp. Sơ đồ 1.4: Bảo lãnh gián tiếp Sơ đồ 1.5: Đồng bảo lãnh Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của Techcombank Biểu đồ 2.1: Vốn điều lệ của Techcombank giai đoạn 2003-2006 Biểu đồ 2.2: Tổng lợi nhuận trước thuế giai đoạn 2003-2006 Biểu đồ 2.3: Vốn huy động của Techcombank từ 2003-2006 Biểu đồ 2.4: Dư nợ tín dụng giai đoạn 2003-2006 của Techcombank. Bảng 2.1: Các chỉ tiêu kết quả kinh doanh của Techcombank giai đoạn 2003-2006 Bảng 2.2: Dư nợ bảo lãnh từ năm 2003 đến 2006 Bảng 2.3: Dư nợ bảo lãnh quá hạn của Techcombank Bảng 2.4: Doanh thu bảo lãnh 2004-2005 Bảng 2.5: Biểu phí bảo lãnh LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đang ngày càng hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới, mở ra những cơ hội phát triển lớn cho tất cả các thành phần kinh tế, nhưng cùng với đó là sự tăng lên của những rủi ro. Vì vậy, nhu cầu hạn chế, khắc phục những rủi ro trong kinh doanh trở thành một đòi hỏi cấp bách của nền kinh tế. Theo đó hàng loạt các công cụ phòng ngừa rủi ro kinh doanh đã ra đời ở nước ta và một trong số đó là bảo lãnh ngân hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng ra đời như một phương tiện phòng ngừa rủi ro góp phần không nhỏ vào việc thông suốt quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bằng cách đảm bảo tư cách của các bên trong quan hệ hợp đồng, từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong quá trình hội nhập khu vực và thế giói. Không những thế nghiệp vụ bảo lãnh cón có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao vai trò, uy tín của hệ thống ngân hàng, khẳng định vị thế cũng như khả năng thích nghi phát triển của các nghiệp vụ ngân hàng đáp ứng đòi hỏi khách quan của nền kinh tế. Hoạt động bảo lãnh ra đời và ngày càng trở nên quan trọng trong các giao dịch, quan hệ giữa các thành phần kinh tế, tuy nhiên bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động còn mới so với các hoạt động truyền thống khác của ngân hàng. Do vậy, nghiệp vụ bảo lãnh vẫn cần được hoàn thiện và cần phải nâng cao chất lượng trong việc thực hiện tại ngân hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng không chỉ mang lại lợi nhuận cao hơn cho ngân hàng mà quan trọng hơn đó là tạo ra sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng và tính thực tiễn của việc nghiên cứu, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội, đề tài: “Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam” đã được lựa chọn để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Với mục đích nghiên cứu nhằm để hiểu sâu sắc hơn những vấn đề lý thuyết về bảo lãnh ngân hàng và vận dụng vào nghiên cứu thực tế, nội dung chuyên đề thực tập sẽ bao gồm ba phần chính như sau: Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG. Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP KỸ THƯƠNG VIỆT NAM Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP KỸ THƯƠNG VIỆT NAM Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của TS. Đặng Ngọc Đức và các anh chị trong phòng Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội đã giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập này. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.1.1 Sự hình thành và phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng Hoạt động truyền thống của một ngân hàng thương mại (NHTM) là huy động vốn và sử dụng vốn để kinh doanh. Tuy nhiên trong quá trình phát triển của nền kinh tế, các ngân hàng đã không ngừng tạo ra những sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn những nhu cầu phát sinh trong quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng là một trong những sản phẩm mới của ngân hàng trong quá trình phát triển, nhằm tạo ra những lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế nói chung và cho ngân hàng nói riêng. Vai trò của ngân hàng ngày một trở nên quan trọng hơn, chính vì vậy mà các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cũng ngày càng trở nên quan trọng. 1.1.1.1 Bảo lãnh ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan. Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của các giao dịch thương mại. Các giao dịch ngày càng tăng về mặt quy mô, giá trị, độ phức tạp và được mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy mà việc thực hiện các giao dịch thường kéo dài và chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như: lãi suất, tỷ giá, sự biến động giá... làm tăng khả năng xảy ra rủi ro (rủi ro từ khâu ký kết hợp đồng cho đến rủi ro trong sản xuất và rủi ro trong thanh toán). Đặc biệt đối với thương mại quốc tế khả năng xảy ra rủi ro lại càng cao khi mà các giao dịch có sự ngăn cách về mặt không gian và thời gian, có sự khác biệt về thể chế chính trị, hệ thống pháp lý, quy chế mậu dịch, điều kiện thị trường... Từ những cơ sở khách quan đó, hoạt động bảo lãnh đã ra đời như là một công cụ để phòng ngừa rủi ro. Bảo lãnh đã tạo ra sự yên tâm cho hai bên giao dịch về việc bên kia sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, nhờ sự tin tưởng vào uy tín và khả năng tài chính của bên thức ba đứng ra bảo lãnh. Trên thực tế có nhiều tổ chức tài chính, phi tài chính đã đứng ra phát hành bảo lãnh như: Chính phủ, công ty Bảo hiểm, công ty tài chính, công ty chứng khoán... song chủ yếu và phát triển nhất vẫn là bảo lãnh của các NHTM. Sở dĩ như vậy là do những đặc điểm riêng có của các NHTM, đó là: NHTM thường xuyên cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế nên đã xây dựng được uy tín, cũng như mối quan hệ gắn bó, tin tưởng của khách hàng với ngân hàng. Uy tín của ngân hàng là yếu tố quan tâm hàng đầu của khách hàng khi quyết định lựa chọn dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng. NHTM là một trung gian tài chính có khả năng huy động được một nguồn vốn lớn trong nền kinh tế. Khả năng này đã đem lại cho ngân hàng tiềm lực tài chính to lớn, hoàn toàn có thể đứng ra phát hành bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng. NHTM thông qua những hoạt động truyền thống như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán... thường xuyên nắm bắt, cập nhật, phân tích và lưu trữ những thông tin về khách hàng, tạo cơ sở cho việc ra các quyết định bảo lãnh đúng đắn. Như vậy, sự ra đời của bảo lãnh là một tất yếu khách quan giúp phòng ngừa rủi ro trong các giao dịch tài chính và phi tài chính. Và sự phát triển của bảo lãnh gắn chặt với các NHTM, một tổ chức tài chính có khả năng cung cấp dịch vụ bảo lãnh tốt nhất. 1.1.1.2 Sự phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh được cho là đã xuất hiện từ rất lâu, từ thời trung cổ ở Hy Lạp, trong những mối quan hệ giữa các cá nhân trong cuộc sống thường ngày. Đến giữa những năm 60 của thế kỷ XX bảo lãnh đã bắt đầu xuất hiện trong thị trường nội địa nước Mỹ dưới hình thức thư tín dụng dự phòng. Tuy nhiên, phải tới những năm 70, hoạt động bảo lãnh ngân hàng mới thực sự được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Nguồn gốc là từ sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp dầu mỏ khiến các quốc gia Trung Đông trở nên giàu có. Họ liên tục ký kết những hợp đồng kinh tế lớn với các tập đoàn phương tây để thực hiện các dự án như: tạo cơ sở hạ tầng, canh tân công, nông nghiệp, quốc phòng... Và để đảm bảo tính an toàn cho những giao dịch lớn này, các công ty dầu mỏ Trung Đông đã yêu cầu các tập đoàn phương Tây phải chứng minh năng lực tài chính của mình thông qua sự bảo lãnh của các ngân hàng. Đó là một nhu cầu tất yếu, bởi lẽ trong giao dịch thương mại quốc tế luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro. Sau những năm 70, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, hoạt động bảo lãnh đã phát triển một cách đáng ngạc nhiên. Bảo lãnh thực sự trở thành công cụ đảm bảo tính an toàn cho hoạt động kinh doanh, thúc đẩy các giao dịch kinh doanh. Như vậy, ta thấy sự ra đời của hoạt động bảo lãnh gắn liền với sự hình thành và phát triển của thương mại quốc tế. Tuy không cùng xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của ngân hàng, nhưng bảo lãnh đã trở thành một hoạt động không thể thiếu đối với bản thân ngân hàng cũng như đối với nền kinh tế và đang nhanh chóng phát triển cùng với xu hướng mở rộng các quan hệ kinh tế trong và ngoài nước. 1.1.2 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng Hoạt động bảo lãnh là một hoạt động mang tính trừu tượng và liên quan tới nhiều lĩnh vực trong xã hội, vì vậy mà có rất nhiều những khái niệm khác nhau về bảo lãnh, song về bản chất là giống nhau. Nghiệp vụ bảo lãnh về bản chất được quan niệm như sau: “Bảo lãnh ngân hàng là cam kết văn bản của ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay” Từ định nghĩa trên đây ta thấy mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia trong hoạt động bảo lãnh, trong đó thông thường tồn tại ba chủ thể chính là: Bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh, khách hàng của ngân hàng là bên được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba. Nói tóm lại, bảo lãnh được hiểu là khái niệm chỉ ra mối quan hệ giao dịch thương mại giữa các chủ thể kinh tế trong quá trình thực hiện nghĩa vụ đối với các bên còn lại nhằm đảm bảo tôn trọng lợi ích kinh tế giữa các bên. Chính vì vậy, nghiệp vụ bảo lãnh bao giờ cũng bao gồm ba yếu tố: Phải xuất hiện nghĩa vụ cụ thể giữa các bên tham gia bảo lãnh. Nghĩa vụ đó phải là nghĩa vụ về mặt tài chính. Các thành viên tham gia phải có ba bên: bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Đồng thời nghiệp vụ bảo lãnh cũng yêu cầu tối thiểu trên ba hợp đồng: Hợp đồng giữa bên yêu cầu bảo lãnh (bên được bảo lãnh) và bên nhận bảo lãnh (hợp đồng thương mại giao dịch). Hợp đồng giữa bên được bảo lãnh - bên bảo lãnh (hợp đồng bảo lãnh). Hợp đồng giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Các hợp đồng này có cơ sở pháp lý ràng buộc, và vì vậy các nghĩa vụ được đảm bảo bằng pháp luật, bắt buộc phải thực hiện khi phát sinh. Ngân hàng là tổ chức tài chính thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phổ biến và rộng rãi nhất, đặc biệt là trong các giao dịch lớn và các giao dịch quốc tế. Nghiệp vụ bảo lãnh cũng vì thế mà trở thành một nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng khi nền kinh tế ngày càng mở cửa với quốc tế. Không chỉ mang lại lợi nhuận cho ngân hàng mà hoạt động bảo lãnh thực sự phát huy hiệu quả của nền kinh tế khi tạo ra niềm tin giữa các bên giao dịch và giúp các bên nắm bắt được nhiều cơ hội kinh doanh hơn, tiết kiệm được các nguồn lực tài chính của nền kinh tế hơn và tăng tốc độ chu chuyển của vốn hơn. Bảo lãnh ngân hàng cũng có bản chất giống với hoạt động bảo lãnh nói chung, chỉ có điểm khác đó là bên bảo lãnh là các ngân hàng thương mại. Các NHTM có năng lực tài chính lớn, cùng với uy tín của ngân hàng và đặc điểm thống nhất trong hệ thống ngân hàng đã khiến hoạt động bảo lãnh trở nên phát triển nhất. Với định nghĩa trên ta đã có được một khái niệm cơ bản về hoạt động bảo lãnh, song để hiểu được bản chất của bảo lãnh ngân hàng, ta sẽ phân tích những đặc điểm cơ bản của hoạt động này. 1.1.3 Đặc điểm bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng thực chất là việc các ngân hàng bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đứng ra bảo lãnh cho khách hàng về các nghĩa vụ đối với bên thứ ba. Nó có những đặc điểm khác với các hình thức bảo đảm khác. 1.1.3.1 Bảo lãnh ngân hàng là một mối quan hệ đa phương Thật vậy, bảo lãnh ngân hàng không đơn thuần chỉ là mối quan hệ giữa ngân hàng với bên được bảo lãnh, mà nó là sự tổng hợp của ít nhất ba mối quan hệ: Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các bên trong bảo lãnh ngân hàng Bên bảo lãnh Bên được bảo lãnh Bên nhận bảo lãnh HĐ 2 Hợp đồng bảo lãnh HĐ 3 Thư bảo lãnh HĐ 1 Cung cấp hàng hoá dịch vụ Hoạt động bảo lãnh được phát sinh trước hết là từ sự thỏa thuận giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh trong Hợp đồng 1: Hợp đồng phát sinh nghĩa vụ được bảo lãnh. Theo đó, bên được bảo lãnh phải tới yêu cầu ngân hàng phát hành thư bảo lãnh. Và chỉ khi bên được bảo lãnh đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng, thì bảo lãnh mới được xác lập. Lúc này, sẽ phát sinh những quan hệ sau: Quan hệ giữa ngân hàng và bên được bảo lãnh: là quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng và người hưởng tín dụng, được thể hiện trong HĐ2: Hợp đồng bảo lãnh. Quan hệ giữa ngân hàng và bên nhận bảo lãnh: thể hiện trong HĐ3: Thư bảo lãnh do ngân hàng phát hành, quy định những điều kiện để bên nhận bảo lãnh có thể nhận được thanh toán của ngân hàng trong trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã cam kết. Như vậy, hoạt động bảo lãnh chỉ hình thành khi có sự thỏa thuận thống nhất từ cả ba chủ thể trên, được thể hiện cụ thể qua ba hợp đồng có liên quan. Ba hợp đồng này tuy có sự độc lập với nhau song nó vẫn có ảnh hưởng qua lại. Đó chính là đặc điểm khác biệt giữa bảo lãnh với các hình thức cho vay và bảo hiểm. 1.1.3.2 Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập Việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là hoàn toàn mang tính độc lập giữa các bên, thể hiện ở sự độc lập về quyền lợi và nghĩa vụ tài chính của từng bên đối với các loại hợp đồng có trong quá trình bảo lãnh. Hợp đồng thứ nhất là hợp đồng cơ sở được thiết lập giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Ngân hàng không có quyền can thiệp vào các thỏa thuận trong hợp đồng này, mà chỉ đứng trên góc độ phân tích để đưa ra quyết định về việc có chấp nhận mở bảo lãnh hay không. Hợp đồng thứ hai là hợp đồng bảo lãnh cũng hoàn toàn độc lập với bên nhận bảo lãnh. Ngân hàng chỉ có trách nhiệm thông báo với bên thụ hưởng quyết định chấp nhận bảo lãnh của mình. Hợp đồng thứ ba là thư bảo lãnh của ngân hàng thông báo cho bên thụ hưởng về quyết định bảo lãnh của ngân hàng đối với người yêu cầu bảo lãnh. Ngân hàng có trách nhiệm thanh toán ngay sau khi nhận được yêu cầu của bên nhận bảo lãnh theo đúng thỏa thuận trong thư bảo lãnh không phụ thuộc vào mối quan hệ của ngân hàng với bên được bảo lãnh. Như vậy, sự tách biệt trong các quan hệ phát sinh giữa các bên cho thấy tính chất độc lập của hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, mức độ độc lập này cũng mang tính chất tương đối và có thể bị giảm sút tùy theo các điều kiện bảo lãnh. Đặc điểm này giúp phân biệt bảo lãnh với bảo hiểm, vì nghĩa vụ thanh toán bảo hiểm của công ty bảo hiểm chỉ được thực hiện khi công ty bảo hiểm có đầy đủ những bằng chứng chứng minh tổn thất xảy ra thuộc phạm vi được bảo hiểm. 1.1.3.3 Bảo lãnh ngân hàng là hoạt động ngoại bảng. Thật vậy, hoạt động bảo lãnh là việc ngân hàng dùng uy tín của mình để cam kết thanh toán và chỉ khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên thứ ba thì ngân hàng mới phải thanh toán thay cho bảo lãnh. Như vậy về thực chất thì ngân hàng không phải bỏ ra một đồng vốn nào của mình khi bắt đầu phát hành bảo lãnh. Chỉ khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên thứ ba thì ngân hàng mới phải thanh toán thay cho khách hàng. Điều này có nghĩa, khi quyết định bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng không phải xuất tiền ngay nên không ảnh hưởng đến bảng cân đối kế toán và do đó bảo lãnh ngân hàng được xếp vào hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên, nếu rủi ro xảy ra, ngân hàng phải thực hiện thanh toán cho bên thụ hưởng thay cho khách hàng thì ngay lập tức sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới bảng cân đối kế toán, phát sinh khoản nợ của khách hàng và được xếp vào khoản “nợ xấu” trong nội bảng, và cấu thành nên “nợ quá hạn”. Như vậy, nếu hoạt động bảo lãnh có chất lượng kém thì không những có ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngân hàng mà còn có ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản của ngân hàng. Vì vậy, việc đưa ra quyết định bảo lãnh đúng đắn là rất quan trọng. 1.1.3.4 Bảo lãnh ngân hàng tiến hành trên cơ sở chứng từ. Giao dịch truyền thống của ngân hàng là thông qua chứng từ và trên cơ sở chứng từ và hoạt động bảo lãnh cũng không là ngoại lệ. Bảo lãnh là một cam kết bằng văn bản, việc ngân hàng thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong bảo lãnh cũng như thực hiện quyền đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh cũng căn cứ vào các chứng từ. Người thụ hưởng chỉ cần xuất trình đầy đủ các chứng từ hợp lý và hợp pháp thì ngay lập tức ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính của mình. Tất cả mọi giao dịch đều phải có chứng từ làm căn cứ ra quyết định đảm bảo tính an toàn cao nhất. Như vậy, muốn chất lượng bảo lãnh được đảm bảo thì trước hết phải tìm hiểu thật kỹ các đặc điểm của bảo lãnh để từ đó có thể đưa ra được những quyết định bảo lãnh đúng đắn, tránh làm ảnh hưởng đến hoạt động, tài sản cũng như uy tín của ngân hàng. 1.1.4 Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh Mặc dù bảo lãnh không phải là một hoạt động cho vay nhưng đối với ngân hàng rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh cũng tương tự như trong nghiệp vụ cho vay. Khi phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, khoản tiền các ngân hàng bỏ ra trả thay được xử lý như một khoản nợ quá hạn. Vì vậy trình tự và thủ tục trong nghiệp vụ bảo lãnh cũng có nhiều điểm tương tự như trong nghiệp vụ cho vay như tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết định bảo lãnh, ký hợp đồng, xử lý nợ quá hạn phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Sơ đồ 1.2: Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng (Bên bảo lãnh) Khách hàng của NH (Bên được bảo lãnh) Bên thứ ba (Bên nhận bảo lãnh) (4) (3) (1) (2) (a) Khách hàng kí hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, về xây dựng, hay vay vốn... Bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng. Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi đến ngân hàng. Ngân hàng phân tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu của bảo lãnh cũng như mức độ rủi ro. Nếu đồng ý bảo lãnh, ngân hàng sẽ kí hợp đồng bảo lãnh với khách hàng và phát hành thư bảo lãnh. Ngân hàng thông báo thư bảo lãnh cho bên thứ ba. Theo như đã thoả thuận với khách hàng và bên thứ ba, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên thứ ba nếu nghĩa vụ đó xảy ra. Theo như hợp đồng bảo lãnh đã kí với khách hàng, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng (trả nợ gốc, lãi hoặc phí). Bước 1: Khách hàng lập và gửi hồ sơ đề nghị bảo lãnh Trong hồ sơ gồm có: Hồ sơ pháp lý. Giấy đề nghị bảo lãnh. Báo cáo tài chính, báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và các thông tin khác, tài sản đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định. Bước 2: Ngân hàng thẩm định hồ sơ và ra quyết định bảo lãnh Nhận được hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng, ngân hàng tiến hành thẩm định hồ sơ đó, chủ yếu là thẩm định các điều kiện bảo lãnh của khách hàng (đã hội tụ đầy đủ và thoả mãn quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh chưa), tài sản đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh đã đủ tiêu chuẩn chưa. Sau khi thẩm định hồ sơ, ngân hàng đưa ra quyết định bảo lãnh hay không bảo lãnh (nếu không đồng ý bảo lãnh thì ngân hàng phải trả lời bằng văn bản cho khách hàng và nói rõ lý do). Bước 3: Ngân hàng ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng và phát hành thư bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh do ngân hàng lập và là hợp đồng độc lập với hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và bên thứ ba. Nội dung chính của hợp đồng: Tên, địa chỉ của tổ chức tín dụng và khách hàng. Số tiền, thời hạn bảo lãnh và phí bảo lãnh. Mục đích, phạm vi, đối tượng bảo lãnh. Điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Hình thức bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh, giá trị tài sản làm đảm bảo. Quyền và nghĩa vụ của các bên. Quy định về bồi hoàn sau khi tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Giải quyết tranh chấp phát sinh Chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của các bên. Những thoả thuận khác. Cần lưu ý rằng hợp đồng bảo lãnh có thể được sửa đổi bổ sung hoặc huỷ bỏ nếu các bên liên quan có thoả thuận. Bước 4: Khách hàng thanh toán phí bảo lãnh và các khoản phí khác (nếu có) theo thoả thuận trong hợp đ
Tài liệu liên quan