Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Hoá

Công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước trong những năm qua bước đầu đã thu được một số kết quả to lớn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho sự phát triển và đi lên của đất nước. Hoà nhập tiến độ phát triển của nền kinh tế, ngành ngân hàng càng tỏ ra có vị trí vô cùng quan trọng đối với sự phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hoạt động ngân hàng đã đạt được những thành tựu quan trọng như ổn định tiền tệ, kìm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế. Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII cũng đã định hướng phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nêu cao quan điểm phát huy nội lực, tập trung tạo nguồn vốn, huy động và sử dụng tốt các nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn; phát huy vai trò của hệ thống tín dụng đối với nông nghiệp và nông thôn trong đó Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn giữ vai trò chủ lực. Thực hiện chủ trương trên của Ban chấp hành Trung ương Đảng,Thủ tướng chính phủ đã có quyết định 67/1999/QĐ-TTg về một số chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn; Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đã phối hợp Trung ương hội Nông dân Việt Nam ký Nghị quyết liên tịch số 2308/NQLT-1999; với Trung ương hội phụ nữ Việt Nam ký Nghị quyết liên tịch số 02/NQLT-2000, nhằm phối hợp triển khai, tổ chức thực hiện chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. Do đặc trưng của nền kinh tế là một thể chế kinh tế đan xen giữa kế hoạch và thị trường, nên đối tác của ngân hàng còn nhiều khó khăn và kinh doanh chưa ổn định. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang phục hồi và phát triển nhưng thực chất cạnh tranh ở môi trường pháp luật còn chưa đồng bộ. Hoạt động tín dụng của ngân hàng bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn hạn chế và tồn tại cần phải tiếp tục nghiên cứu và giải quyết nên việc nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả của ngân hàng thương mại về chất lượng tín dụng là hết sức cần thiết. Qua thực tiễn quan sát, thu thập và thống kê tại NHNo&PTNT Thanh Hoá em nhận thấy để đạt được hiệu quả khi cho vay, tránh được rủi ro, thúc đẩy kinh tế hộ ngày càng phát triển đi lên làm lợi cho xã hội, cho bản thân ngân hàng thì cần phải coi trọng công tác tín dụng hộ sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, khi hội nhập WTO thì người nông dân cũng sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, vì thế cũng sẽ ảnh hưởng tới việc thu hồi nợ của ngân hàng.Do vậy đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Hoá” được chọn làm đề tài viết chuyên đề tốt nghiệp. Bài viết của em gồm 3 phần: Chương 1: Những vấn đề chung về chất lượng hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp Chương 2: Thực trạng về hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp tại NHNo&PTNT Thanh Hoá. Chương 3: Giải pháp để tăng chất lượng cho vay hộ sản xuất nông nghiệp. Do thời gian thực tập ngắn, trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên dù có sự hướng dẫn của Tiến sĩ Đặng Ngọc Đức cùng các cô chú trong cơ quan nhưng em viết đề tài này vẫn không tránh khỏi khiếm khuyết. Vì thế em rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy để đề tài của em được hoàn thiện hơn.

doc73 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước trong những năm qua bước đầu đã thu được một số kết quả to lớn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho sự phát triển và đi lên của đất nước. Hoà nhập tiến độ phát triển của nền kinh tế, ngành ngân hàng càng tỏ ra có vị trí vô cùng quan trọng đối với sự phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hoạt động ngân hàng đã đạt được những thành tựu quan trọng như ổn định tiền tệ, kìm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế. Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII cũng đã định hướng phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nêu cao quan điểm phát huy nội lực, tập trung tạo nguồn vốn, huy động và sử dụng tốt các nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn; phát huy vai trò của hệ thống tín dụng đối với nông nghiệp và nông thôn trong đó Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn giữ vai trò chủ lực. Thực hiện chủ trương trên của Ban chấp hành Trung ương Đảng,Thủ tướng chính phủ đã có quyết định 67/1999/QĐ-TTg về một số chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn; Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đã phối hợp Trung ương hội Nông dân Việt Nam ký Nghị quyết liên tịch số 2308/NQLT-1999; với Trung ương hội phụ nữ Việt Nam ký Nghị quyết liên tịch số 02/NQLT-2000, nhằm phối hợp triển khai, tổ chức thực hiện chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. Do đặc trưng của nền kinh tế là một thể chế kinh tế đan xen giữa kế hoạch và thị trường, nên đối tác của ngân hàng còn nhiều khó khăn và kinh doanh chưa ổn định. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang phục hồi và phát triển nhưng thực chất cạnh tranh ở môi trường pháp luật còn chưa đồng bộ. Hoạt động tín dụng của ngân hàng bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn hạn chế và tồn tại cần phải tiếp tục nghiên cứu và giải quyết nên việc nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả của ngân hàng thương mại về chất lượng tín dụng là hết sức cần thiết. Qua thực tiễn quan sát, thu thập và thống kê tại NHNo&PTNT Thanh Hoá em nhận thấy để đạt được hiệu quả khi cho vay, tránh được rủi ro, thúc đẩy kinh tế hộ ngày càng phát triển đi lên làm lợi cho xã hội, cho bản thân ngân hàng thì cần phải coi trọng công tác tín dụng hộ sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, khi hội nhập WTO thì người nông dân cũng sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, vì thế cũng sẽ ảnh hưởng tới việc thu hồi nợ của ngân hàng.Do vậy đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Hoá” được chọn làm đề tài viết chuyên đề tốt nghiệp. Bài viết của em gồm 3 phần: Chương 1: Những vấn đề chung về chất lượng hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp Chương 2: Thực trạng về hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp tại NHNo&PTNT Thanh Hoá. Chương 3: Giải pháp để tăng chất lượng cho vay hộ sản xuất nông nghiệp. Do thời gian thực tập ngắn, trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên dù có sự hướng dẫn của Tiến sĩ Đặng Ngọc Đức cùng các cô chú trong cơ quan nhưng em viết đề tài này vẫn không tránh khỏi khiếm khuyết. Vì thế em rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1 Những vấn đề chung về chất lượng hoạt động cho vay hộ sản xuất nông nghiệp 1.1.Hộ sản xuất nông nghiệp 1.1.1.Quan niệm về hộ sản xuất nông nghiệp Hộ sản xuất xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ, được nhà nước giao đất quản lý và sử dụng vào sản xuất kinh doanh và được phép kinh doanh trên một số lĩnh vực nhất định do nhà nước quy định. Hộ sản xuất nông nghiệp là hộ sản xuất nhưng sinh sống bằng nghề nông. Trong quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự: Những hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, là chủ thể trong các quan hệ dân sự đó. Những hộ gia đình mà đất được giao cho hộ cũng là chủ thể trong quan hệ dân sự liên quan đến đất ở đó. 1.1.2.Phân loại hộ sản xuất Căn cứ vào vị trí và đặc điểm của hộ sản xuất, người ta phân loại hộ sản xuất như sau: -Hộ sản xuất loại I bao gồm các loại sau: + Hộ chuyên sản xuất Nông, Lâm, Ngư, Diêm nghiệp có tính chất tự sản xuất, tự tiêu thụ sản phẩm và do các nhân làm chủ hộ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả kinh doanh +Hộ cá thể tư nhân làm kinh tế gia đình +Hộ là những thành viên nhận khoán các tổ chức kinh tế hợp tác, các doanh nghiệp nhà nước. -Hộ sản xuất loại II: Bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh theo luật định Hộ sản xuất loại II có những đặc trưng sau: +Được cấp giấy phép kinh doanh hoặc giấy phép thành lập do cơ quan có thẩm quyền Nhà nước cấp + Có giấy phép kinh doanh do trọng tài kinh tế Nhà nước cấp. + Có vốn điều lệ ( nếu là công ty), vốn đầu tư ban đầu (nếu là doanh nghiệp tư nhân) cao hơn vốn pháp định. Hộ sản xuất loại II bao gồm các hộ sau: +Hộ tư nhân +Hộ là hợp tác xã +Công ty cổ phần, công ty TNHH Theo cách phân loại trên thì hộ loại I là hộ bao trùm nhất trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đây chính là thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng và cho đầu tư tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. 1.1.3.Vai trò của kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp đối với nền kinh tế Hộ sản xuất nông nghiệp có vai trò là chủ thể trong nền kinh tế nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng, kinh tế nông nghiệp nông thôn muốn phát triển, muốn hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn trước hết hộ sản xuất phải được trang bị tư liệu sản xuất hiện đại, trang bị kĩ thuật sản xuất và phải có vốn để sản xuất kinh doanh. Hộ sản xuất nông nghiệp là một nhân tố quyết định quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm nông nghiệp, tạo ra của cải vật chất làm đa dạng phong phú sản phẩm trên thị trường tạo nên động lực thúc đẩy nền kinh tế trên địa bàn nông thôn phát triển. Hộ sản xuất nông nghiệp là thị trường tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp như: Máy móc, thiết bị để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sản xuất nông nghiệp. Hộ sản xuất còn có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách lao động, chính sách huy động nội lực, chính sách phủ xanh đất trống đồi trọc, chính sách khuyến nông, khuyến lâm… Là động lực khai thác các tiềm năng, tận dụng các nguồn lực vốn, lao động, tài nguyên đất đai đưa vào sản xuất làm tăng sản phẩm cho xã hội. Là đối tác cạnh tranh của kinh tế quốc doanh trong quá trình đó để cùng vận động và phát triển. Hiệu quả đó gắn liền với sản xuất, kinh doanh tiết kiệm được chi phí, chuyển hướng sản xuất nhanh tạo được quỹ hàng hoá cho tiêu dùng và xuất khẩu, tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Xét về lĩnh vực tài chính tiền tệ thì kinh tế hộ tạo điều kiện mở rộng thị trường vốn, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư. Tạo điều kiện cho kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp phát triển đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và tạo được nhiều việc làm cho người lao động góp phần ổn định trật tự xã hội, nâng cao trình độ dân trí, sức khoẻ và đời sống của người dân. Kinh tế hộ được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, sôi đông, sử dụng có hiệu quả hơn đất đai, lao động tiền vốn, công nghệ và lợi thế sinh thái từng vùng. Kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp đang trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông lâm, thuỷ sản, hải sản, sản xuất các ngành nghề thủ công phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. 1.1.4.Đặc điểm của kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp Hộ sản xuất nông nghiệp là đơn vị sản xuất cơ bản, sản xuất rất ổn định, là phương tiện tuyệt vời để tăng trưởng sản phẩm nông nghiệp. Hộ sản xuất nông nghiệp có đặc trưng riêng biệt, không giống những đơn vị kinh tế khác, cũng vì thế mà hộ sản xuất nông nghiệp là đơn vị kinh tế khá đặc biệt. Trong cấu trúc nội tại của hộ sản xuất nông nghiệp, các thành viên của hộ gắn bó với nhau trước tiên bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống tạo nên sự thống nhất chặt chẽ giữa việc sở hữu, quản lý và sử dụng các yếu tố sản xuất; thống nhất giữa quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và sử dụng tiêu dùng trong một đơn vị kinh tế. Trong quá trình đó có mối liên kết chặt chẽ với các đơn vị khác và với hệ thống kinh tế quốc dân. Trong hộ sản xuất nông nghiệp gắn bó với nhau cả về vật chất lẫn tinh thần, có quyền lợi cùng hưởng, có khó khăn cùng chia sẻ. Kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp nhìn chung là sản xuất nhỏ, mang tính tự cấp tự túc hoặc sản xuất hàng hoá với năng suất lao động thấp nhưng lại có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có nước ta. Kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp về căn bản không dựa trên lao động làm thuê, vẫn tỏ rõ sức sống và hiệu quả của nó. Đến cuối thế kỉ thứ XIX trang trại gia đình đã trở thành mô hình sản xuất phổ biến nhất trong nông nghiệp thế giới. Kinh tế hộ không thể chuyển sang sản xuất hàng hoá, không thể tiếp cận với cơ chế thị trường nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước và cơ chế chính sách, về vốn. Tại Việt Nam, kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp cũng đã xuất hiện và tồn tại hàng nghìn năm và trong nhiều năm nữa vẫn là đơn vị cơ bản trong phát triển nông nghiệp. Bên cạnh đó mô hình sản xuất nông nghiệp cũng có không ít hạn chế: -Công cụ sản xuất thường là thủ công lạc hậu, năng suất thấp. Chỉ ở những nước có nền kinh tế phát triển, trong lĩnh vực nông nghiệp đã được công nghiệp hoá thì các công cụ sản xuất mới được đầu tư hiện đại. Đầu tư vào công cụ sản xuất cũng cần có một lượng vốn lớn, không phải hộ sản xuất nông nghiệp nào cũng có thể mua được. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các hộ không nhất thiết phải mua sắm các loại máy móc, công cụ mà có thể thông qua các dịch vụ cho thuê, các hộ có thể giải quyết nhu cầu này. - Sản xuất lệ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều. Mỗi khi gặp phải thiên tai hoặc điều kiện thời tiết không thuận lợi thì sẽ ảnh hưởng tới năng suất của sản xuất nông nghiệp, có khi còn mất trắng vụ mùa. -Lao động ở các vùng nông thôn sản xuất nông nghiệp thường có tình trạng thất nghiệp theo mùa vụ, dẫn đến thu nhập của người nông dân không ổn định, số lượng lao động nhàn rỗi lớn tạo ra sự lãng phí về sức lực lao động. - Trình độ dân trí trong nông thôn còn thấp, điều đó làm sự tiếp thu khoa học kĩ thuật vào sản xuất kinh doanh còn hạn chế. -Vốn kinh doanh của các hộ sản xuất nông nghiệp nhỏ bé, luôn thiếu. Việc giải quyết vấn đề thiếu vốn cho hộ sản xuất nông nghiệp là một giải pháp hàng đầu tạo tiền đề cho các hộ khai thác các nguồn lực để đưa vào quá trình tái sản xuất. 1.2.Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất nông nghiệp 1.2.1.Vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển hộ sản xuất nông nghiệp Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị của người sở hữu sang người sử dụng sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng ban đầu. Trong lịch sử tín dụng ra đời và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hoá, khi nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển thì các quan hệ tín dụng cũng mở rộng và phát triển đa dạng như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước, tín dụng tiêu dùng.Tuy nhiên do có nhiều ưu điểm phục vụ cho sự phát triển kinh doanh nên tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng hơn cả, nó khắc phục được những hạn chế của tín dụng thương mại về quy mô thời gian và phương hướng vận động. Tín dụng ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng đối với các thành phần kinh tế. Đối với hộ sản xuất nông nghiệp cũng vậy: Để tiến hành sản xuất kinh doanh thì các hộ sản xuất thiếu vốn để phát triển sản xuất hàng hoá. Vì vậy nếu Nhà nước không có sự giúp đỡ về vốn đến từng hộ sản xuất nông nghiệp thì họ không có đủ điều kiện đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá và tình trạng phân hoá giàu nghèo cùng với tình trạng cho vay nặng lãi sẽ tăng lên ở nông thôn. Để tạo vốn cho hộ sản xuất nông nghiệp, có thể kết hợp nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp cơ bản là cho vay trực tiếp hoặc thông qua tổ đến từng hộ sản xuất. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất nông nghiệp thể hiện ở những điểm sau: -Tín dụng ngân hàng cung cấp vốn cho từng hộ sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở nhu cầu vay vốn, ngân hàng cung cấp vốn cho từng hộ sản xuất, giúp họ tận dụng khai thác mọi tiềm năng đất đai, lao động và tài nguyên thiên nhiên từ đó cho ra đời ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn hàng hoá để cung cấp cho sản xuất, tiêu dùng, cho xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội. -Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện duy trì các ngành nghề truyền thống, phát triển các nghề mới nhằm giải quyết công ăn việc làm, góp phần xây dựng nông thôn giàu đẹp và văn minh. Dựa vào lợi thế so sánh giữa các vùng, các địa phương khi có nhu cầu vốn đầu tư người dân đã khôi phục, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới thu hút nhiều lao động, tạo công ăn việc làm, góp phần xây dựng nông thôn giàu đẹp và văn minh. -Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo điều kiện cho từng hộ sản xuất tiếp cận với công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Tín dụng ngân hàng không những tham gia vào quá trình cho vay ngắn, trung dài hạn nhằm xây dụng cơ sở vật chất kĩ thuật tiên tiến phục vụ cho quá trình sản xuất và đời sống nông thôn như xây sựng mạng lưới điện, trạm bơm, hệ thống thuỷ lợi, đường xá, cải tiến công cụ lao động, đầu tư cho dịch vụ phục vụ sản xuất và sinh hoạt. -Tín dụng ngân hàng hạn chế cho vay nặng lãi trong nông thôn. Tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn đã tồn tại từ lâu và có tác động rất lớn đến sản xuất và đời sống của người dân. Đồng vốn tín dụng đã thâm nhập sâu đến từng hộ gia đình giúp họ hạn chế nhiều nạn cho vay nặng lãi, tạo điều kiện cho kinh tế hộ vươn lên. -Tín dụng ngân hàng giúp hộ sản xuất làm quen và từng bước thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, sử dụng vốn vay có hiệu quả. Trong sản xuất hàng hoá để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mình thì bất cứ một đơn vị sản xuất kinh doanh nào cũng phải tiến hành hạch toán kinh tế để sản phẩm của mình được thị trường chấp nhận và kinh doanh có lãi. Các hộ được vay vốn ngân hàng phải thực hiện nguyên tắc hoàn trả lãi cho ngân hàng đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi. Do đó các hộ đòi hỏi phải tính toán hiệu quả, sử dụng vốn vay đúng mục đích để sau khi trả gốc và lãi cho ngân hàng thì các hộ vẫn còn thu nhập của mình. -Tín dụng ngân hàng giúp hộ sản xuất nông nghiệp tiếp cận và mở rộng sản xuất hàng hoá. Khi chưa có tín dụng ngân hàng, sản xuất của các hộ gia đình chủ yếu là tự cung tự cấp. Tín dụng ngân hàng cung cấp, bổ sung vốn cho hộ sản xuất nông nghiệp, để rồi một phần của hộ sẽ trở thành hàng hoá, đồng thời thông qua thị trường họ có thể định hướng cho sản xuất của mình sao cho sản phẩm sản xuất ra đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người mua. Để đáp ứng được ngày càng đa dạng các nhu cầu đó buộc hộ sản xuất phải mở rộng quy mô sản xuất, tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm để tiêu thụ nhanh với lợi nhuận cao. Như vậy nhờ có tín dụng ngân hàng mà tính chất sản xuất hàng hoá ngày càng tăng lên trong cách nghĩ, cách làm của người nông dân. 1.2.2.Các loại hình cho vay 1.2.2.1.Cho vay trực tiếp: Đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất và quan trọng nhất hiện nay tại các chi nhánh ngân hàng. Phương pháp cho vay trực tiếp là phương pháp mà ở đây ngân hàng cơ sở tổ chức cho khách hàng vay từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc một khoản vay. Ngoài việc cho hội sản xuất nông nghiệp vay vốn trực tiếp, ngân hàng nơi cho vay có thể thoả thuận với khách hàng thực hiện các hình thức vay vốn sau: -Cho hộ sản xuất nông nghiệp vay trực tiếp thông qua tổ vay vốn: +Tổ vay vốn do các thành viên là hộ gia đình, cá nhân tự nguyện thành lập, có nhu cầu vay vốn, cùng cư trú tại thôn, xóm (khóm, ấp). +Trình tự thành lập tổ vay vốn: Thống nhất danh sách tổ viên, bầu lãnh đạo tổ sau khi đã có đơn của các tổ viên Thông qua quy ước hoạt động Trình chính quyền cơ sở công nhận cho phép hoạt động +Thủ tục vay: Tổ viên gửi cho tổ trưởng giấy đề nghị vay vốn và các giấy tờ khác theo quy định. Tổ trưởng nhận hồ sơ của tổ viên, tổ chức họp bình xét điều kiện vay vốn, sau đó tổng hợp danh sách tổ viên có đủ điều kiện vay vốn, đề nghị ngân hàng cho xét vay; Từng tổ viên ký hợp đồng tín dụng trực tiếp với ngân hàng tại nơi cho vay; -Cho hộ sản xuất nông nghiệp vay trực tiếp thông qua doanh nghiệp: Vốn vay phải trực tiếp tới tay hộ gia đình, cá nhân cần vốn sản xuất, kinh doanh. Ngân hàng nơi cho vay ký hợp đồng với doanh nghiệp làm dịch vụ vay vốn cho hộ gia đình, cá nhân trong đó có nội dung: +Thủ tục vay: tương tự hình thức cho vay thông qua tổ vay vốn. Doanh nghiệp vay trực tiếp để chuyển tải vốn cho hộ sản xuất nông nghiệp nhận khoán: doanh nghiệp phải có đủ các điều kiện vay vốn theo quy định. Doanh nghiệp vay trực tiếp và có trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng. Doanh nghiệp phải có hợp đồng cung ứng vật tư, tiền vốn, tiêu thụ sản phẩm cho hánản xuất nông nghịêp nhận khoán. Ưu điểm của hình thức cho vay: Mức độ rủi ro ít và người vay có đủ các điều kiện vay vốn và có đủ tài sản đảm bảo nợ vay mới được vay vốn ngân hàng. Hơn nữa khách hàng vay vốn chủ yếu là khách hàng truyền thống, có uy tín với ngân hàng nên cán bộ tín dụng có điều kiện nắm vững và sâu sắc hơn về khả năng tài chính của khách hàng cũng như các mối quan hệ xã hội khác của khách hàng. Hạn chế của phương pháp cho vay này: Cho vay theo phương pháp này ngân hàng cơ sở phải dàn trải nhân viên và cũng chỉ đáp ứng được một phần đông các hộ khá và trung bình, các hộ cận nghèo ít có cơ hội được vay vốn phát triển kinh tế trong nông thôn không được đồng đều. 1.2.2.2. Cho vay gián tiếp Đây là phương pháp cho vay nhằm khác phục những hạn chế trong vay vốn phát triển hộ sản xuất nông nghiệp ở phương pháp cho vay trực tiếp Phương pháp này thể hiện thông qua các hình thức như sau: -Cho vay thông qua tổ chức tài chính trung gian: HTX tín dụng, ngân hàng cổ phần, công ty tài chính, các tổ chức hoạt động tự nguyện. -Cho vay thông qua các tổ chức kinh tế: HTX sản xuất, các doanh nghiệp nhà nước ( nông trường, trang trại ), các tổ chức xã hội như: Hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội thanh niên, hội làm vườn… Ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức trung gian này với mục đích giúp cho ngân hàng tạo các kênh chuyển vốn vay đến hộ sản xuất một cách rộng khắp và quy mô lớn. Đối tượng vay vốn của các tổ chức trung gian này thường là hộ nghèo, thiếu vốn sản xuất nhưng không đủ tài sản đảm bảo, họ có sức lao động, có ý trí vươn lên. Qua đó tạo điều kiện cho các hộ này được vay vốn phát triển sản xuất, từng bước là thay đổi bộ mặt nông thôn mới. Một vấn đề nữa là cho vay vốn tới hộ thông qua phương pháp này ngân hàng thực hiện được trách nhiệm đối với Nhà nước là xoá đói, giảm nghèo tạo sự phát triển đồng đều trong sản xuất nông nghiệp và nông thôn. Cho vay thông qua tổ chức kinh tế- xã hội làm trung gian thực chất là cho hộ sản xuất vay bằng tín chấp, bằng uy tín của tổ chức đứng ra làm trung gian. Nhưng thực tế mặc dù tiết kiệm được chi phí cho hoạt động ngân hàng, với một số cán bộ tín dụng có thể cho vay được nhiều hơn cả về số lượng hộ và số lượng tiền vốn (tăng dư nợ) trên địa bàn phụ trách. Nhưng do bị hạn chế về tài sản đảm bảo vốn vay cùng với hạn chế về mặt chuyên môn kĩ thuật của hoạt động ngân hàng có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. 1.2.3.Quy trình cho vay Quy trình cho vay gồm 3 bước như sau: 1.2.3.1.Phân tích tín dụng Phòng tín dụng của ngân hàng chịu trách nhiệm về phân tích tín dụng và đưa ra những đánh giá đối với hầu hết các đơn xin vay. Khi xem xét một đơn xin vay, phòng tín dụng phải trả lời thoả đáng 3 câu hỏi sau: 1.Người xin vay có đáng tin cậy không? Sao bạn biết? 2.Liệu hợp đồng tín dụng có thể được cấu trúc để bảo vệ an toàn cho ngân hàng và người gửi tiền cũng như tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng món vay một cách hiệu quả không? 3.Liệu ngân hàng có quyền đối với tài sản và thu nhập của khách hàng
Tài liệu liên quan