Chuyên đề Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng

Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến mạnh mẽ, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO những cơ hội và thách thức đặt ra càng lớn. Cùng với đó là sự ra đời của rất nhiều những doanh nghiệp ở nhiều lĩnh vực khác nhau, kéo theo sự ra đời của nhiều dự án lớn nhỏ khác nhau, vì thế nhu cầu về vốn vay tài trợ cho các dự án này cũng tăng cao, đây sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi cho các NHTM tăng cường hoạt động cho vay tài trợ cho dự án.Yêu cầu đặt ra là khi số lượng các dự án ngày càng tăng như thế liệu chất lượng dự án có được đảm bảo? Vấn đề về hiệu quả của dự án được đặt ra đối với các cơ quan chức năng có liên quan, trong đó có NHTM. Không nằm ngoài xu hướng chung, ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng trong giai đoạn vừa qua đã thực hiện chỉ đạo của NHCT Việt Nam: “ Tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ, mà chủ yếu là cho vay theo dự án”. Điều này đòi hỏi chất lượng thẩm định cũng phải được đảm bảo vì các dự án thường đòi hỏi lượng vốn lớn và thời gian khá dài nên chứa đựng rủi ro lớn. Sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai bà Trưng, nhận thức được tầm quan trọng của việc thẩm định tài chính dự án nên em đã quyết định chọn đề tài: “ Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng”. là chuyên đề thực tập của mình. Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương : Chương 1: Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM. Chương 2 : Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng. Chương 3 : Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại NHCT Chi nhánh Hai Bà Trưng. Do kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề thực tập của em còn có nhiều thiếu sót. Do vậy em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của của các thầy cô trong khoa Ngân hàng – Tài chính và các cô chú, anh chị trong Chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà trưng. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn cùng toàn thể cán bộ NHCT Chi nhánh Hai Bà Trưng đã giúp đỡ tận tình để em hoàn thành chuyên đề thực tập của mình.

doc75 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1165 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến mạnh mẽ, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO những cơ hội và thách thức đặt ra càng lớn. Cùng với đó là sự ra đời của rất nhiều những doanh nghiệp ở nhiều lĩnh vực khác nhau, kéo theo sự ra đời của nhiều dự án lớn nhỏ khác nhau, vì thế nhu cầu về vốn vay tài trợ cho các dự án này cũng tăng cao, đây sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi cho các NHTM tăng cường hoạt động cho vay tài trợ cho dự án.Yêu cầu đặt ra là khi số lượng các dự án ngày càng tăng như thế liệu chất lượng dự án có được đảm bảo? Vấn đề về hiệu quả của dự án được đặt ra đối với các cơ quan chức năng có liên quan, trong đó có NHTM. Không nằm ngoài xu hướng chung, ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng trong giai đoạn vừa qua đã thực hiện chỉ đạo của NHCT Việt Nam: “ Tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ, mà chủ yếu là cho vay theo dự án”. Điều này đòi hỏi chất lượng thẩm định cũng phải được đảm bảo vì các dự án thường đòi hỏi lượng vốn lớn và thời gian khá dài nên chứa đựng rủi ro lớn. Sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai bà Trưng, nhận thức được tầm quan trọng của việc thẩm định tài chính dự án nên em đã quyết định chọn đề tài: “ Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng”. là chuyên đề thực tập của mình. Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương : Chương 1: Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM. Chương 2 : Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng. Chương 3 : Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại NHCT Chi nhánh Hai Bà Trưng. Do kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề thực tập của em còn có nhiều thiếu sót. Do vậy em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của của các thầy cô trong khoa Ngân hàng – Tài chính và các cô chú, anh chị trong Chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà trưng.. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn cùng toàn thể cán bộ NHCT Chi nhánh Hai Bà Trưng đã giúp đỡ tận tình để em hoàn thành chuyên đề thực tập của mình. CHƯƠNG 1 CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Hoạt động cho vay của NHTM 1.1.1 Khái niệm Cho vay, còn gọi là tín dụng, là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất. 1.1.2 Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM Hoạt động cho vay, hay hoạt động tín dụng có vai trò rất quan trọng đối với chính bản thân ngân hàng, đối với doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Tín dụng ngân hàng gồm có tín dung ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Đối với từng chủ thể khác nhau, mỗi loại hình tín dụng lại có những vai trò khác nhau. Cụ thể: 1.1.2.1. Vai trò của tín dụng ngắn hạn. Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tín dụng đã góp phần làm ổn định và phát triển sản xuất của nền kinh tế, các tổ chức và mỗi cá nhân. Cũng như các loại tín dụng khác, tín dụng ngắn hạn có vai trò cực kỳ quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là một nước trong giai đoạn đang phát triển thì tín dụng ngắn hạn càng có vai trò quan trọng. Nó thể hiện: * Đối với nền kinh tế Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, nó là kênh chuyển vốn từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế. Các kênh truyền dẫn vốn có thể qua thị trường tài chính đó là các nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, nhưng nó đã bị cạnh tranh mạnh mẽ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng tham gia vào thị trường này như: Công ty Bảo hiểm, các quỹ đầu tư, công ty tài chính.. Hoặc là thị trường tiền tệ là kênh dẫn và huy động những nguồn vốn và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Thị trường này hoạt động rất linh hoạt và cung cấp một nguồn rất lớn cho nền kinh tế. Do đó tín dụng ngắn hạn ngày càng phát triển mạnh mẽ. * Đối với các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ sung vốn lưu động để bảo đảm hoạt động kinh doanh được liên tục Không có sự ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu và các khoản chi của một doanh nghiệp nên tại một thời điểm nhất định, trong nền kinh tế có những thời điểm trong nền kinh tế có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời và cần bổ sung ngay để đảm bảo tính sản xuất được liên tục. Đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ như các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, các công ty chế biến nông sản, các doanh nghiệp xây lắp…hoặc các doanh nghiệp có vòng quay vốn lưu động chậm thì các khoản tín dụng từ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giúp cho quá trình sản xuất không bị gián đoạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn có ý nghĩa lớn đối với các doanh nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp doanh nghiệp tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất. Tín dụng ngắn hạn tạo áp lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Một trong những nguyên tắc cơ bản là vay có hoàn trả ngốc lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Do vậy có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và tạo lập được uy tín trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả để trả nợ cho ngân hàng. Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là một yếu tố kích thích sản xuất của doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm để có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, tạo lập chỗ đứng trên thị trường. Đối với các doanh nghiệp lớn, công việc sản xuất đang phát triển thì phần lớn vốn lưu động đều vay ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp còn ký hợp đồng ứng trước để có thể linh hoạt trong việc vay vốn, đáp ứng các cơ hội kinh doanh. Do tính chất của tín dụng ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi kể cả trên phần dư nợ vay chưa sử dụng đến. Do đó bắt buộc các doanh nghiệp phải quay vốn nhanh và tính toán hoạt động kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho cả doanh nghiệp và cả cho ngân hàng. Nói tóm lại, tín dụng ngắn hạn không chỉ giúp các doanh nghiệp có được nguồn bổ sung nguồn vốn lưu động mà còn là động lực giúp các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, trước là để trả các khoản nợ vay và sau là để phát triển doanh nghiệp. * Đối với ngân hàng. Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đã đảm bảo nguồn thu chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là công cụ để tạo nên lợi nhuận và phòng chống rủi ro của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động của các ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm đến các vấn đề : Phải tạo được nguồn thu bù đắp được các chi phí(chi phí huy động vốn, chi phí trả lương, chi phí quản lý...). Mặt khác phải đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tín dụng ngắn hạn có thể giúp các nhà quản trị giải quyết vấn đề này. 1.1.2.2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn. * Đối với doanh nghiệp Là một chủ thể trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ phía các đối thủ khác. Để có thể tồn tại và phát triển, tất yếu doanh nghiệp phải thắng thế trong cạnh tranh. Muốn vậy, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược sản xuất - kinh doanh hợp lý, phù hợp với năng lực, điều kiện của bản thân và điều kiện thị trường. Do đó, về lâu dài doanh nghiệp phải chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, mua sắm máy móc trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm và giảm thiểu chi phí đến mức thấp nhất có thể. Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Để huy động vốn cho các kế hoạch sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp có thể tìm kiếm từ các nguồn sau: Tự tích luỹ bằng lợi nhuận không chia: là một phương thức tạo nguồn tài chính khá quan trọng đối với doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp tránh được sự phân chia kiểm soát với bên ngoài. Tuy nhiên, phương thức tài trợ này đòi hỏi một thời gian dài mới mang lại một lượng vốn đáng kể cho doanh nghiệp, do đó có thể khiến doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, tự tích luỹ chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có lợi nhuận. Điều này là khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động. Phát hành cổ phiếu, trái phiếu: nguồn này có ưu điểm là có thể tập trung được lượng vốn cần thiết trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, nếu phát hành cổ phiếu có thể dẫn đến sự phân chia quyền kiểm soát công ty. Nếu phát hành trái phiếu, doanh nghiệp sẽ phải chịu nhiều chi phí tốn kém như: chi phí giao dịch, chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, lệ phí đăng ký chứng khoán,… Hơn nữa, không phải trái phiếu của doanh nghiệp nào cũng được công chúng đầu tư tín nhiệm, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ điều kiện để được phép phát hành trái phiếu ra công chúng. Thêm vào đó, trái phiếu không tạo ra sự linh hoạt về kỳ hạn của khoản nợ. Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng: có ưu thế hơn so với các nguồn trên, thể hiện ở chỗ: Một là: Nó giúp cho doanh nghiệp chớp lấy thời cơ kinh doanh nhờ rút ngắn thời gian tìm kiếm vốn. Thủ tục vay ngân hàng tuy chặt chẽ nhưng nếu tuân thủ đúng thì thời gian để doanh nghiệp nhận được khoản tín dụng là ngắn hơn rất nhiều so với tự tích luỹ hay phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Hai là: Không dẫn đến sự phân chia quyền kiểm soát công ty với bên ngoài so với việc phát hành cổ phiếu. Ba là: Mọi doanh nghiệp chỉ cần có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư khả thi đều có thể được ngân hàng cấp tín dụng. Bốn là: Tín dụng trung và dài hạn tạo ra sự linh hoạt về kỳ hạn: doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng theo kỳ hạn phù hợp với yêu cầu kinh doanh và chu kỳ thu nhập. Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ của các khoản tín dụng trung và dài hạn là dễ dàng: khi doanh nghiệp làm ăn thuận lợi, nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi, có thể trả nợ ngân hàng trước hạn. Ngược lại, khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất - kinh doanh, có thể xin ngân hàng gia hạn nợ. Mặt khác, việc trả nợ trung và dài hạn được phân chia thành các kỳ hạn hợp lý và ổn định, giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc tìm kiếm nguồn trả nợ. Những ưu điểm đó khiến cho tín dụng trung và dài hạn là một nguồn được các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động ưa thích. Mặc dù có nhiều ưu thế hơn so với các hình thức huy động vốn khác nhưng lãi suất tín dụng vẫn là một chi phí khá cao đối với doanh nghiệp. Cùng với sự ràng buộc về thời hạn cho vay, mục đích sử dụng, nó buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn có hiệu quả: phải tính đến tính khả thi khi đầu tư, đòi hỏi doanh thu thu được từ phương án sản xuất - kinh doanh, dự án đầu tư phải đủ lớn để trả gốc và lãi cho ngân hàng mà doanh nghiệp vẫn có lãi. Thêm vào đó, sự kiểm tra, giám sát của ngân hàng đối với khoản cho vay sau khi giải ngân có tác dụng giúp doanh nghiệp phát hiện được những nhược điểm, sai sót trong quá trình đầu tư, từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm hạn chế rủi ro cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng. * Đối với ngân hàng Hai hoạt động cơ bản của một NHTM là huy động vốn và cho vay. Nói cách khác, NHTM - trung gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế - đóng vai trò là người "đi vay để cho vay". Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng tạo ra nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện nghiệp vụ cho vay. Khi huy động vốn từ nền kinh tế, ngân hàng phải bỏ ra chi phí. Để trang trải được các chi phí này, bắt buộc ngân hàng phải sử dụng vốn huy động vào lĩnh vực đem lại lợi nhuận. Thu nhập từ lãi vay là khoản thu nhập chủ yếu giúp trang trải được các chi phí huy động, chi phí hoạt động và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó, có thể nói tín dụng là nghiệp vụ quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của một NHTM. Không có hoạt động tín dụng thì không có NHTM. Tín dụng trung và dài hạn với đặc điểm là rủi ro cao, vốn đầu tư lớn, thời gian cho vay dài nên có lãi suất cao, là nguồn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Thông qua hoạt động tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng không ngừng mở rộng quy mô khách hàng: bằng việc thu hút thêm các khách hàng mới, tạo ra mối liên hệ chặt chẽ và lâu bền với các khách hàng truyền thống. Nhờ đó, ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, ngày càng khẳng định vị thế và vai trò của mình trong nền kinh tế. Một ngân hàng sẽ không thể tồn tại và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường, có sự cạnh tranh gay gắt từ phía các ngân hàng và các trung gian tài chính khác nếu không đa dạng hoá hoạt động cho vay, khách hàng vay và thời hạn vay. Sau khi huy động được vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng không thể để vốn đó trong két mà phải sử dụng nó để tìm kiếm lợi nhuận. Mặt khác, ngân hàng không thể "ngừng" nhận tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế. Nếu không có phương án sử dụng vốn huy động một cách khả thi thì vốn huy động sẽ trở thành gánh nặnh cho ngân hàng (vì ngân hàng vẫn phải trả lãi tiền gửi). Tín dụng trung và dài hạn góp phần vào việc làm cho vốn huy động không bị nhàn rỗi, mà được sử dụng hiệu quả để đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Tín dụng trung và dài hạn là một trong các cơ sở để ngân hàng mở rộng huy động vốn, sử dụng vốn một cách khả thi, tăng sức cạnh tranh của bản thân ngân hàng. * Đối với nền kinh tế Ở mọi quốc gia, nhu cầu vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá và mở rộng sản xuất đều rất lớn. Nhu cầu này có thể được đáp ứng bởi nhiều nguồn như: Ngân sách Nhà nước, viện trợ phát triển, vay nợ nước ngoài nhưng nguồn quan trọng nhất vẫn là tín dụng trung và dài hạn của các NHTM. Trong nền kinh tế, do đặc điểm về chu kì kinh doanh, chu kỳ thu nhập của các chủ thể là khác nhau, nên tồn tại hiện tượng: có những chủ thể tạm thời thặng dư vốn nhưng chưa có dự án để đầu tư; ngược lại, có những chủ thể có phương án sản xuất - kinh doanh khả thi nhưng lại thiếu hụt vốn. Tín dụng trung và dài hạn đã khắc phục tình trạng này bằng cách chuyển các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư sang tay những người cần vốn để đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh. Nhờ đó đã làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tăng nhanh tốc độ quay vòng của vốn trong nền kinh tế. Tín dụng trung và dài hạn bằng cách tài trợ cho việc sửa chữa, thay thế, cải tiến máy móc, đổi mới công nghệ, các dự án xây dựng phát triển đã góp phần quan trọng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, tạo điều kiện cần cho sự phát triển của đất nước trong tương lai. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với những nước mà cơ sở hạ tầng kinh tế - kĩ thuật còn lạc hậu như nước ta. Thông qua việc cho vay đối với ngành nghề này mà không cho vay đối với ngành nghề khác, tín dụng trung và dài hạn đã có ảnh hưởng tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Việc ưu tiên tập trung vốn cho các ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn có tác dụng tạo ra bước nhảy quan trọng cho nền kinh tế. Từ đó thúc đẩy, hỗ trợ, lôi cuốn các ngành kinh tế khác cùng đi lên, tạo ra sự phát triển đồng bộ và toàn diện của nền kinh tế. Tín dụng trung và dài hạn thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu. Nguồn vốn trung dài hạn mà các doanh nghiệp nhận được từ các NHTM giúp họ có thể nhập khẩu các máy móc, trang thiết bị hiện đại, công nghệ mới từ nước ngoài - vốn có giá rất cao. Các máy móc, công nghệ này là tiền đề để doanh nghiệp gia tăng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất. Điều này khiến cho hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước được nâng cao tính cạnh tranh so với hàng hoá của các nước trong khu vự và quốc tế, tạo cơ sở để tăng cường xuất khẩu. Tín dụng trung và dài hạn được mở rộng sẽ kéo theo sự phát triển của thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Nguồn vốn trung và dài hạn được đầu tư để trang bị máy móc, công nghệ hiện đại cho doanh nghiệp sẽ kích thích sản xuất phát triển. Khi sản xuất phát triển, tất yếu nhu cầu sử dụng vốn lưu động sẽ tăng lên, tạo ra thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Thị trường này càng được mở rộng khi tốc độ phát triển sản xuất càng cao. Tín dụng trung và dài hạn tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Nó mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, giúp doanh nghiệp làm ăn có lãi. NHTM và doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận thì lượng thuế đóng cho ngân sách Nhà nước càng nhiều. Thêm vào đó, bằng việc kích thích nền kinh tế phát triển, kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng, lượng thuế gián thu thu được từ các hoạt động kinh tế cũng tăng lên. Ta biết rằng thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước nên thông qua việc làm tăng lượng thuế phải nộp, tín dụng trung và dài hạn góp phần làm cho ngân sách Nhà nước tăng trưởng ổn định và lâu dài. Tín dụng trung và dài hạn còn góp phần ổn định cuộc sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống của các tầng lớp dân cư. 1.1.3 Phân loại cho vay gồm có Cho vay thương mại: Ngay từ thời kỳ đầu mới hình thành, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu, mà thực tế là cho vay đối với những người buôn bán (người bán chuyển các khoản phai thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hang (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ, mở rộng sản xuất kinh doanh Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản cho vay tiên dùng khả năng vỡ nợ là tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là các ngành công nghệ cao. Rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi suất lớn, một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất. 1.1.4. Hoạt động cho vay theo dự án của NHTM Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận. Lãi thu được từ hoạt động cho vay là khoản thu lớn nhất để bù đắp chi phí huy động vốn, chi phí kinh doanh và chi phí quản lý của ngân hàng. Khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng được cấp phép hoạt động. Hơn nữa, thông qua các khoản vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về khách hàng và khi đó giúp họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. Các dự án đầu tư phát triển thường đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn và thời gian dài, một số dự án đầu tư được sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, xu thế hiện nay là việc các Ngân hàng thương mại là nhà tài trợ hoặc đồng tài trợ cho các dự án đầu tư. Tại sao lại có xu hướng này?. Ta có thể nhận thấy một số nguyên nhân sau: * Quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, các dự án đầu tư phát triển nhiều mà ngân sách Nhà nước thì có hạn không thể đáp ứng nổi nhu cầu vốn cho tất cả các dự án đầu tư. Do vậy, việc Ngân hàng thương mại tài trợ một phần, kết hợp với các nguồn khác là biện pháp hiệu quả đối với nhiều dự án đầu tư phát triển có tính sinh lời cao, an toàn. Tài trợ của Ngân hàng thương mại sẽ hạn chế bao cấp của Nhà nước cũng như hạn chế gánh nặng nợ nần của quốc gia, hạn chế tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác thường phát sinh gắn liền với tài trợ của Nhà nước. Góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy tăng trưởng và tạo ra một số lượng lớn việc làm mới cho người lao động. * Ổn định dư nợ lâu dài, giúp Ngân hàng có điều kiện dành nguồn lực để nâng cao chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh doanh. Riêng đối với các dự án trọng điểm của Nhà nước thì đảm bảo an toàn vì phần lớn
Tài liệu liên quan