Trong sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi x¬ướng và lãnh đạo hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại đã có những đóng góp vô cùng quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Khi nền kinh tế càng phát triển mạnh thì nhu cầu vốn rất lớn, bao gồm cả ngắn, trung và dài hạn. Tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện cho các chủ thể đầu tư¬ phát triển sản xuất kinh doanh, từ đó tăng trưởng kinh tế vững mạnh, từng bư¬ớc hội nhập với khu vực và thế giới.
Cùng với sự trưởng thành và lớn mạnh của NHĐT&PT Việt Nam, NHĐT&PT Điện Biên cũng đã hình dung được vai trò to lớn của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Mặc dù là một tỉnh miền núi còn gặp nhiều khó khăn do địa bàn chia cắt, trình độ dân trí thấp, kinh tế xã hội chưa phát triển song không vì thế mà việc tuyên truyền về những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội bị hạn chế.
Trong những năm vừa qua, số lượng khách hàng có quan hệ với NHĐT&PT Điện biên ngày càng tăng, đặc biệt khách hàng là Doanh nghiệp xây lắp. Sự phát triển loại hình doanh nghiệp này từ lâu được đánh giá là thị trường quan trọng cho việc nâng cao và tăng trưởng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Với vai trò của mình, tín dụng ngân hàng có tác động tích cực trong việc đáp ứng nhu cầu bức thiết về vốn giúp Doanh nghiệp xây lắp đổi mới trang thiết bị, mua nguyên vật liệu, mua sắm máy móc, thiết bị thi công. góp phần tạo ra bộ mặt mới cho tỉnh Điện Biên. Chính vì vậy, từ khi thành lập cho đến nay, NHĐT&PT Điện Biên (NHĐT&PT Lai Châu cũ) luôn coi việc nâng cao chất lượng tín dụng với khách hàng là Doanh nghiệp xây lắp là nhiệm vụ hết sức quan trọng vì nó quyết định đến sự phát triển của ngân hàng. Tuy nhiên, việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp gặp rất nhiều khó khăn do đặc điểm riêng biệt của loại hình doanh nghiệp này và do cơ chế quản lý của ngân hàng. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là, làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp. Là người trực tiếp thực tập tại NHĐT&PT Điện Biên, em thấy được sự cần thiết phải có những biện pháp thiết thực và cụ thể cho công tác này. Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh NHĐT&PT Điện Biên” cho chuyên đề của mình.
Ngoài mở đầu và kết luận, nội dung chuyên đề gồm ba phần chính, đó là:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp tại NHĐT&PT Điện Biên
- Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp tại NHĐT&PT Điện Biên
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song cũng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong chuyên đề của mình. Em xin gửi lời cảm ơn tới giảng viên hướng dẫn và NHĐT&PT Điện Biên (cụ thể là phòng Tín dụng – nơi em thực tập) đã giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để em hoàn thành bài chuyên đề một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn !
70 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1113 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp tại dhi nhánh ngân hàng đầu tư phát triển Điện Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại đã có những đóng góp vô cùng quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Khi nền kinh tế càng phát triển mạnh thì nhu cầu vốn rất lớn, bao gồm cả ngắn, trung và dài hạn. Tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện cho các chủ thể đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, từ đó tăng trưởng kinh tế vững mạnh, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.
Cùng với sự trưởng thành và lớn mạnh của NHĐT&PT Việt Nam, NHĐT&PT Điện Biên cũng đã hình dung được vai trò to lớn của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Mặc dù là một tỉnh miền núi còn gặp nhiều khó khăn do địa bàn chia cắt, trình độ dân trí thấp, kinh tế xã hội chưa phát triển song không vì thế mà việc tuyên truyền về những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội bị hạn chế.
Trong những năm vừa qua, số lượng khách hàng có quan hệ với NHĐT&PT Điện biên ngày càng tăng, đặc biệt khách hàng là Doanh nghiệp xây lắp. Sự phát triển loại hình doanh nghiệp này từ lâu được đánh giá là thị trường quan trọng cho việc nâng cao và tăng trưởng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Với vai trò của mình, tín dụng ngân hàng có tác động tích cực trong việc đáp ứng nhu cầu bức thiết về vốn giúp Doanh nghiệp xây lắp đổi mới trang thiết bị, mua nguyên vật liệu, mua sắm máy móc, thiết bị thi công... góp phần tạo ra bộ mặt mới cho tỉnh Điện Biên. Chính vì vậy, từ khi thành lập cho đến nay, NHĐT&PT Điện Biên (NHĐT&PT Lai Châu cũ) luôn coi việc nâng cao chất lượng tín dụng với khách hàng là Doanh nghiệp xây lắp là nhiệm vụ hết sức quan trọng vì nó quyết định đến sự phát triển của ngân hàng. Tuy nhiên, việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp gặp rất nhiều khó khăn do đặc điểm riêng biệt của loại hình doanh nghiệp này và do cơ chế quản lý của ngân hàng. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là, làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp. Là người trực tiếp thực tập tại NHĐT&PT Điện Biên, em thấy được sự cần thiết phải có những biện pháp thiết thực và cụ thể cho công tác này. Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh NHĐT&PT Điện Biên” cho chuyên đề của mình.
Ngoài mở đầu và kết luận, nội dung chuyên đề gồm ba phần chính, đó là:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp tại NHĐT&PT Điện Biên
- Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp tại NHĐT&PT Điện Biên
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song cũng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong chuyên đề của mình. Em xin gửi lời cảm ơn tới giảng viên hướng dẫn và NHĐT&PT Điện Biên (cụ thể là phòng Tín dụng – nơi em thực tập) đã giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để em hoàn thành bài chuyên đề một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm, các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Tuỳ theo sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính của mỗi quốc gia, ngân hàng bao gồm nhiều hình thức khác nhau như ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại tư nhân, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng thương mại liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài.
1.1.1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại
Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng. Đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Các nhà nghiên cứu lịch sử phát triển kinh tế thế giới cho rằng nghề ngân hàng đã xuất hiện thời Trung cổ trên cơ sở của sự phát triển và lưu thông hàng hóa. Các thương nhân buôn bán, các lãnh chúa giàu có có khối lượng tiền lớn và xuất hiện nhu cầu cất giữ an toàn. Và những người giàu có, các thợ vàng đã đóng vai trò của người giữ hộ. Nhưng thời gian sau nhận thấy được nhu cầu chi trả hộ, nhu cầu về vốn của các thương nhân ngày càng cao trong khi đó mình lại giữ một khối lượng tiền lớn cho nên những người làm nghề giữ hộ đã đem cho vay và lấy lãi. Mặt khác để thu hút lượng tiền gửi ngày càng nhiều, các nhà giữ hộ tiền thay đổi từ hình thức thu phí sang hình thức trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất. Cứ như vậy với sự phát triển của kinh tế và công nghệ, xuất hiện các tổ chức thực hiện các hoạt động như: huy động vốn, cho vay, trung gian thanh toán - lúc đó ngân hàng thực sự ra đời.
Cùng với sự phát triển của kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh. Và cho tới ngày nay, ngân hàng vẫn được khẳng định là loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế, do đó có một số khái niệm về ngân hàng thương mại (NHTM).
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện các dịch vụ tài chính mà chúng cung cấp: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế". Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc hình thành các ngân hàng đa năng như ngày nay.
Hoặc "Ngân hàng thương mại là đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với những hoạt động chủ yếu và thường xuyên nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó để cho vay và làm phương tiện thanh toán”.
Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam lại định nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nhiệm vụ thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch vụ quản lý cho khách hàng, đồng thời nó cũng thực hiện nhiều vai trò khác trong nền kinh tế. Thành công của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Các dịch vụ của ngân hàng được thể hiện thông qua các hoạt động cơ bản của nó.
a) Nghiệp vụ huy động vốn
Nguồn vốn của ngân hàng tập trung chủ yếu vào 3 nhóm: tiền gửi, tiền vay và vốn tự có. Nguồn quan trọng nhất là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng.
- Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh, các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau:
+ Tiền gửi thanh toán – là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ giữ và thanh toán hộ.
+ Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
+ Tiền gửi của các ngân hàng khác.
- Vốn vay: Vào những giai đoạn cụ thể, các ngân hàng phải đi vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
+ Phát hành giấy tờ có giá: kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu
+ Vay NHTW
+ Vay các tổ chức tín dụng khác.
- Vốn chủ chủ sở hữu: Để đảm bảo hoạt động, các ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định, có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
+ Nguồn vốn hình thành ban đầu: có thể là vốn của nhà nước, vốn do các cổ đông tham gia đóng góp, vốn do các bên liên doanh góp, vốn sở hữu tư nhân.
+ Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: nguồn từ lợi nhuận, nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm,...
+ Các quỹ: quỹ dự phòng tổn thất, quỹ thăng dư...
b) Nghiệp vụ sử dụng vốn
Hoạt động chính của NHTM là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng nhưng phải đảm bảo an toàn và sinh lời.
Nghiệp vụ sử dụng vốn bao gồm:
- Nghiệp vụ ngân quĩ: Tiền mặt trong két, vàng và các kim khí, đá quí khác, tiền gửi tại NHTW, tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác.
- Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường vốn nhưng phổ biến vẫn là đầu tư vào chứng khoán (Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty...).
- Nghiệp vụ cho vay (nghiệp vụ tín dụng): Là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động của NHTM, thông qua các hình thức phổ biến sau:
+ Chiết khấu thương phiếu
+ Thấu chi
+ Cho vay trực tiếp từng lần
+ Cho vay theo hạn mức
+ Cho vay luân chuyển
+ Cho vay trả góp
+ Cho vay gián tiếp
c) Các nghiệp vụ khác
Là các nghiệp vụ và các hoạt động mà ngân hàng hoàn thành các dịch vụ cho khách hàng, qua đó ngân hàng nhận được khoản thu nhập dưới dạng hoa hồng. Gồm các nghiệp vụ như sau:
+ Hoạt động thanh toán: Thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống ngân hàng tạo ra nhiều lợi nhuận trong thanh toán, giảm chi phí, giảm rủi ro khi đem theo nhiều tiền mặt trong người đồng thời tận dụng được khối lượng tiền nhàn rỗi đem đầu tư mới.
+ Hoạt động mua bán chuyển đổi ngoại tệ.
+ Hoạt động bảo lãnh.
+ Bảo quản vật có giá.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện nhiều hoạt động khác trên thị trường như kinh doanh vàng, bạc, đá quý; dịch vụ tư vấn, dịch vụ cầm đồ, cho thuê két sắt... Các nghiệp vụ này giúp NHTM thu được những khoản lợi nhuận đáng kể. Đặc biệt là trong xu thế ngân hàng hiện đại ngày nay, các nghiệp vụ này đang rất phát triển.
Với ý nghĩa như trên, chúng ta có thể coi hoạt động ngân hàng của NHTM trong nền kính tế thị trường là thiết lập, phát triển, hoàn thiện các mối quan hệ với khách hàng thông qua các sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho mọi khách hàng.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.2.1 Khái niệm về tín dụng và chất lượng tín dụng ngân hàng
1.2.1.1 Khái niệm về tín dụng, đặc diểm của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ra đời cùng với sự xuất hiện tiền tệ. Khi một chủ thể kinh tế cần một lượng hàng hóa cho nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất trong khi chưa có hoặc số tiền hiện có chưa đủ, họ có thể sử dụng hình thức vay mượn để đáp ứng nhu cầu. Có 2 cách vay mượn: vay chính loại hàng hóa đang có nhu cầu hoặc vay tiền để mua loại hàng hóa đó. Quan hệ vay mượn như vậy gọi là quan hệ tín dụng.
Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn đó sẽ được hoàn lại vào một ngày xác định trong tương lai. Như vậy, có thể hiểu “ Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu”.
Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian khác) – tín dụng ngân hàng – thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Như vậy, tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi theo một thời gian nhất định, giữa một bên là ngân hàng và một bên là các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và dân cư.
Đây là quan hệ tín dụng gián tiếp mà người tiết kiệm, thông qua vai trò trung gian của ngân hàng, thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn. Khác với hình thức tín dụng trực tiếp, nguồn vốn của tín dụng ngân hàng là nguồn vốn huy động của xã hội với khối lượng cũng như thời hạn và mục đích sử dụng. Vì nguồn vốn huy động có tính chất nhàn rỗi tạm thời nên tín dụng ngân hàng chủ yếu đáp ứng các nhu cầu vốn gắn hạn. Tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh nhịp độ tích tụ, tập trung vốn và tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng được sử dụng như công cụ để phát triển các ngành kinh tế chiến lược theo yêu cầu của Chính phủ.
Tín dụng ngân hàng mang một số đặc điểm sau:
Mục đích, đối tượng, thời hạn khoản vốn vay
- Mục đích: Đáp ứng nhu cầu vốn để tài trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp, đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, mua sắm trang thiết bị, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ... của doanh nghiệp.
- Đối tượng: Ngân hàng cho vay đối với nhà nước để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên của nhà nước. Ngân hàng cho vay đối với các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Ngân hàng cho vay đối với các doanh nghiệp nhằm tài trợ nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là khách hàng chiếm số lượng đông nhất của các NHTM, phần lớn các khoản cho vay này có thể chấp hoặc cầm cố tài sản. Ngân hàng cho vay đối với các cá nhân, hộ gia đình.
- Thời hạn cho vay: Là khoảng thời hạn tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và có lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng.
Hình thức tín dụng phong phú
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, góp phần phân tán rủi ro, đồng thời để tăng sức cạnh tranh trên thị trường tín dụng, các NHTM không ngừng phát triển các hình thức cho vay, như: nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu, nghiệp vụ cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức...
Là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động của NHTM
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của NHTM, một hoạt động tạo ra phần lớn thu nhập cho ngân hàng, một hoạt động rất phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro tín dụng xảy ra khi ngân hàng không thu được cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi khoản vay không đúng kỳ hạn. Từ đó rất dễ mang lại những tổn thất lớn cho ngân hàng và có thể làm cho ngân hàng đi đến chỗ phá sản. Vấn đề quan trọng ở đây là làm sao nhận biết được rủi ro, từ đó có những giải pháp để đối phó kịp thời, giảm thiểu rủi ro nhằm bảo toàn vốn cho ngân hàng cũng như nâng cao khả năng sinh lời từ hoạt động này.
1.2.1.2 Quan niệm về chất lượng tín dụng
Trong bất cứ nền kinh tế cạnh tranh nào, doanh nghiệp muốn đứng vững trong hoạt động kinh doanh thì việc cải thiện chất lượng là điều tất yếu. Trong 3 yếu tố: chất lượng, giá cả và lượng bán thì chất lượng là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì khi chất lượng được nâng lên, giá thành sẽ hạ, đảm bảo thoả mãn cho khách hàng cả về chất lượng, giá cả, tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường.
Với nhiều cách đề cập về chất lượng, nhiều nhà kinh tế, nhiều nhà kinh doanh đã nói đến chất lượng bằng nhiều cách khác nhau, chất lượng là: “sự phù hợp với mục đích hoặc sự sử dung”, là “ một trình độ dự kiến về độ đồng đều và độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường” hoặc “chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng”. Với cách đề cập như vậy, có thể hiểu: “Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng”.
Qua khái niệm có thể thấy, khi xem xét chất lượng tín dụng cần tính đến 3 nhân tố, đó là: NHTM, khách hàng và nền kinh tế.
- Thứ nhất, đối với NHTM thì chất lượng tín dụng được thể hiện ở phạm vị, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
- Thứ hai, đối với khách hàng thì khoản tín dụng có chất lượng là phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục, thời gian đơn giản, thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc tín dụng.
- Thứ ba, đối với nền kinh tế, khoản tín dụng có chất lượng là khoản tín dụng phải hỗ trợ cho hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phàn giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu có thể tính toán như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn...) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý, trình độ cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp vụ...) và khách quan (sự thay đổi của môi trường bên ngoài, sự cố ý của khách hàng...). Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi nhu cầu môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện; mức độ an toàn của vốn tín dụng; chi phí tổng thể về lãi suất, chi phí nghiệp vụ...
1.2.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Trong quản lý tín dụng, các nhà quản lý kinh tế thường phân chia theo các tiêu thức sau:
a) Căn cứ vào thời hạn tín dụng
- Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn hợp đồng ngắn thường là dưới 12 tháng và có thể được chia thành các khoảng thời gian là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng. Nhu cầu vốn ngắn hạn của nền kinh tế xuất phát từ những nhu cầu trong chu kỳ sản xuất kinh doanh để mua nguyên vật liệu, trả lương, dự trữ hàng hoá. Nói chung tín dụng ngắn hạn đóng vai trò quan trọng trong vốn lưu động của doanh nghiệp.
- Tín dụng trung hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn hợp đồng từ trên 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định hoặc đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mà có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và tối đa có thể lên tới 20 đên 40 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Việc phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
b) Căn cứ vào hình thức tài trợ
- Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
- Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.
- Cho thuê: Là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
- Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghiệp vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
c) Căn cứ vào mức độ đảm bảo
- Tín dụng có đảm bảo: Là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra đảm bảo cho khoản nợ.
- Tín dụng không có đảm bảo: Là hình thức tín dụng không có tìa sản đảm bảo hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay.
d) Căn cứ vào mức độ rủi ro
- Tín dụng lành mạnh: Là các k