Chuyên đề Nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu và Phát triển Sơn Tây

Tín dụng là chức năng quan trọng nhất của các tổ chức trung gian tài chính là dịch vụ sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là lĩnh vực chưa đựng nhiều rủi ro nhất của các NHTM và các định chế tài chính khác. Trong bối cảnh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá ngày càng tăng, hoạt động tín dụng cần phải được phát triển sao cho phù hợp nhằm đáp ứng được những nhu cầu ngày càng tăng trong xã hội. Nhưng vấn đề là phải đảm bảo chất lượng tín dụng như thế nào để NHTM hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho NHTM làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế và sẽ là cầu nối giữa phần tiết kiệm và đầu tư. Từ đó góp phần điều hoà nguồn vốn trong xã hội, phân bố các nguồn vốn cho đầu tư một cách hợp lý, giảm lãng phí ở những nơi thừa vốn trong xã hội, giảm khó khăn ở những nơi thiếu vốn, tạo quan hệ tốt giữa cung và cầu vốn, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền tệ. Như chúng ta đã biết, tín dụng cũng là một trong những công cụ để Đảng và Nhà nước thực hiện các chủ trương chính sách về phát triển kinh tế. Do vậy, chất lượng tín dụng sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất xã hội, giúp đầu tư đúng hướng để khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên lao động, đảm bảo cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các khu vực trong cả nước. Ngoài ra, tín dụng có chất lượng còn góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tín dụng có chất lượng sẽ góp phần tăng chất lượng sản xuất kinh doanh và tạo một thị trường tài chính lành mạnh. Chất lượng tín dụng được đảm bảo cũng có nghĩa là NH đang trên đà phát triển tốt, nhờ vậy mà có điều kiện đáp ứng yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng. Trong điều kiện nền kinh tế mở kéo theo sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng trên thị trường, nếu NHTM nâng cao được chất lượng tín dụng thì cũng chính là đã tạo được lòng tin ở khách hàng của mình. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng được coi là “thượng đế” nên họ có quyền lựa chọn bất kỳ một NH nào đó làm đối tác. Hay nói cách khác, khách hàng tìm đến NH nào mà ở đó thực sự tạo điều kiện và giúp đỡ họ thực hiện việc kinh doanh đạt hiệu quả thông qua quan hệ tín dụng và các dịch vụ khác. Hơn nữa, về phía NH sẽ có cơ hội tăng số lượng khách hàng, thu hút được thêm nhiều nguồn vốn, tạo điều kiện mở rộng tín dụng. Nâng cao chất lượng tín dụng, tình hình tài chính của NHTM được cải thiện, tạo ra những thế mạnh trong quá trình cạnh tranh, giúp cho NH tránh và hạn chế được những rủi ro, những tổn thất to lớn có thể xảy ra, góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ tín dụng và tạo điều kiện để mở rộng các quan hệ tín dụng. Chất lượng tín dụng quyết định cho sự tồn tại và phát triển của từng NHTM nói riêng và toàn bộ hệ thống NH nói chung. Qua những vấn đề được phân tích ở trên ta thấy rõ sự cần thiết khách quan của việc củng cố tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM. Từ thực tế ở Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Sơn Tây, và sau thời gian học tập nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận, tôi chọn đề tài: "Nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu và Phát triển Sơn Tây" để làm chuyên đề nghiên cứu của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm có 3 chương: Chương I: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Sơn Tây Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Sơn Tây Thông qua việc phân tích thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này tại BIDV CN Sơn Tây. Từ đó, tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé của bản thân mình vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động tín dụng, phòng ngừa và hạn chế những rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Xét về khía cạnh nào đó, tôi hy vọng BIDV CN Sơn Tây nói riêng và hệ thống NH nói chung luôn luôn phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là doanh nghiệp vừa và nhỏ tại BIDV CN Sơn Tây, thời gian trong phạm vi 03 năm, từ năm 2006 đến 30/6/2008. Do khả năng và trình độ của bản thân có hạn, nên chắc rằng đề tài này sẽ không thể tránh khỏi có những khiếm khuyết nhất định, vì thế tôi rất mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và đặc biệt là các thầy, cô trong bộ môn hướng dẫn để đề tài được hoàn chỉnh, mang tính thực tiễn và khả thi cao hơn./.

doc76 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu và Phát triển Sơn Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Tôi đã xây dựng chuyên đề này trên cơ sở những số liệu trung thực có nguồn gốc rõ ràng, được lấy từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Sơn Tây./. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Sơ đồ 2.1 Cơ cấu tổ chức Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Sơn Tây Bảng 01 Tình hình cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Bảng 02 Tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn Bảng 03 Cơ cấu dư nợ tín dụng theo quy mô doanh nghiệp Bảng 04 Số lượng DNV&N có quan hệ vay vốn Biểu đồ 01 Tỷ trọng về số lượng DNV&N với tổng số DN có quan hệ vay vốn Biểu đồ 02 Tốc độ tăng trưởng số lượng DNV&N DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NH Ngân hàng NHTM Ngân hàng Thương mại BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển CN Chi Nhánh TW Trung ương DNV&N Doanh nghiệp vừa và nhỏ DN Doanh nghiệp DA Dự án LỜI NÓI ĐẦU Tín dụng là chức năng quan trọng nhất của các tổ chức trung gian tài chính là dịch vụ sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là lĩnh vực chưa đựng nhiều rủi ro nhất của các NHTM và các định chế tài chính khác. Trong bối cảnh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá ngày càng tăng, hoạt động tín dụng cần phải được phát triển sao cho phù hợp nhằm đáp ứng được những nhu cầu ngày càng tăng trong xã hội. Nhưng vấn đề là phải đảm bảo chất lượng tín dụng như thế nào để NHTM hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho NHTM làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế và sẽ là cầu nối giữa phần tiết kiệm và đầu tư. Từ đó góp phần điều hoà nguồn vốn trong xã hội, phân bố các nguồn vốn cho đầu tư một cách hợp lý, giảm lãng phí ở những nơi thừa vốn trong xã hội, giảm khó khăn ở những nơi thiếu vốn, tạo quan hệ tốt giữa cung và cầu vốn, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền tệ. Như chúng ta đã biết, tín dụng cũng là một trong những công cụ để Đảng và Nhà nước thực hiện các chủ trương chính sách về phát triển kinh tế. Do vậy, chất lượng tín dụng sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất xã hội, giúp đầu tư đúng hướng để khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên lao động, đảm bảo cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các khu vực trong cả nước. Ngoài ra, tín dụng có chất lượng còn góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tín dụng có chất lượng sẽ góp phần tăng chất lượng sản xuất kinh doanh và tạo một thị trường tài chính lành mạnh. Chất lượng tín dụng được đảm bảo cũng có nghĩa là NH đang trên đà phát triển tốt, nhờ vậy mà có điều kiện đáp ứng yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng. Trong điều kiện nền kinh tế mở kéo theo sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng trên thị trường, nếu NHTM nâng cao được chất lượng tín dụng thì cũng chính là đã tạo được lòng tin ở khách hàng của mình. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng được coi là “thượng đế” nên họ có quyền lựa chọn bất kỳ một NH nào đó làm đối tác. Hay nói cách khác, khách hàng tìm đến NH nào mà ở đó thực sự tạo điều kiện và giúp đỡ họ thực hiện việc kinh doanh đạt hiệu quả thông qua quan hệ tín dụng và các dịch vụ khác. Hơn nữa, về phía NH sẽ có cơ hội tăng số lượng khách hàng, thu hút được thêm nhiều nguồn vốn, tạo điều kiện mở rộng tín dụng. Nâng cao chất lượng tín dụng, tình hình tài chính của NHTM được cải thiện, tạo ra những thế mạnh trong quá trình cạnh tranh, giúp cho NH tránh và hạn chế được những rủi ro, những tổn thất to lớn có thể xảy ra, góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ tín dụng và tạo điều kiện để mở rộng các quan hệ tín dụng. Chất lượng tín dụng quyết định cho sự tồn tại và phát triển của từng NHTM nói riêng và toàn bộ hệ thống NH nói chung. Qua những vấn đề được phân tích ở trên ta thấy rõ sự cần thiết khách quan của việc củng cố tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM. Từ thực tế ở Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Sơn Tây, và sau thời gian học tập nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận, tôi chọn đề tài: "Nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu và Phát triển Sơn Tây" để làm chuyên đề nghiên cứu của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm có 3 chương: Chương I: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Sơn Tây Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Sơn Tây Thông qua việc phân tích thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này tại BIDV CN Sơn Tây. Từ đó, tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé của bản thân mình vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động tín dụng, phòng ngừa và hạn chế những rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Xét về khía cạnh nào đó, tôi hy vọng BIDV CN Sơn Tây nói riêng và hệ thống NH nói chung luôn luôn phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là doanh nghiệp vừa và nhỏ tại BIDV CN Sơn Tây, thời gian trong phạm vi 03 năm, từ năm 2006 đến 30/6/2008. Do khả năng và trình độ của bản thân có hạn, nên chắc rằng đề tài này sẽ không thể tránh khỏi có những khiếm khuyết nhất định, vì thế tôi rất mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và đặc biệt là các thầy, cô trong bộ môn hướng dẫn để đề tài được hoàn chỉnh, mang tính thực tiễn và khả thi cao hơn./. CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1. Hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của của Doanh nghiệp Vừa và nhỏ Khái niệm Doanh nghiệp Vừa và nhỏ DNV&N là những DN có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. DNV&N có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là DN siêu nhỏ (micro), DN nhỏ và DN vừa. Theo tiêu chí của Nhóm NH Thế giới, DN siêu nhỏ là DN có số lượng lao động dưới 10 người, DN nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn DN vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định DN nhỏ và vừa ở nước mình. Ở , không phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các DN có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng hoặc số lượng lao động trung bình hàng năm dưới 300 người được coi là Doanh nghiệp Vừa và nhỏ (không có tiêu chí xác định cụ thể đâu là DN siêu nhỏ, đâu là nhỏ, và đâu là vừa). 1.1.1.2. Vai trò, đặc điểm của Doanh nghiệp Vừa và nhỏ Trong nền kinh tế, chúng ta thường nói tới "Doanh nghiệp" và được chúng ta hiểu một cách thông thường là những đơn vị kinh tế được thành lập bởi một cá nhân hay bởi các tổ chức, được nhà nước cho hoạt động nhằm thực hiện hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực nhất định vì mục đích công ích hay lợi nhuận. Sự vận động của nền kinh tế nhất thiết phải có một yếu tố quan trọng đó là DN, không có hoạt động của các DN thì nền kinh tế không thể lưu thông và hoạt động. DNV&N có vai trò lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của rất nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Trong bối cảnh đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, DNV&N đã và đang đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt: Đảm bảo nền tảng ổn định và bền vững của nền kinh tế; huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển; đáp ứng một cách linh hoạt nhu cầu của các ngành kinh tế quốc dân; cải thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho một bộ phận đông đảo dân cư; góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng đất nước. Các hoạt động của các DNV&N đã và đang góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Các DN này đã tạo ra một mạng lưới liên kết giữa các thành phần kinh tế với nhau, thúc đẩy và lưu thông các nguồn lực sẵn có trong xã hội như: vốn, nhân lực... Rõ ràng sự thành công của những cải cách trước đây trong thập niên 80 phần lớn nhờ vào sự đáp ứng mạnh mẽ từ phía cung của các hộ gia đình nông nghiệp: việc bãi bỏ hình thức nông nghiệp tập thể đã nhanh chóng biến từ chỗ thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Trong những năm gần đây, các DNV&N một lần nữa lại trở thành trung tâm của những tranh luận về phát triển. Lần này, sự thảo luận chủ yếu liên quan đến vấn đề tạo việc làm. Vai trò của các DNV&N gần đây cũng đã được nhấn mạnh trong cộng đồng các nhà tài trợ. Cùng với vai trò tạo việc làm của mình, có thể nói các DNV&N cũng là nhân tố chính trong việc giảm nghèo, đặc biệt là tại khu vực nông thôn. Với việc giảm nghèo là mục tiêu phát triển chính yếu hiện được ưu tiên của cộng đồng các nhà tài trợ, đang nhận được nhiều sự khích lệ trong chính sách thúc đẩy sự phát triển DNVVN của mình. Các DN trong quá trình hoạt động và sản xuất của mình đã cung cấp hàng hoá, tạo ra sự lưu thông hàng hoá trong thị trường. Tuy nhiên để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả thì các DN phải có một chiến lược phát triển cụ thể trong quá trình kinh doanh của mình. Ở các DNV&N chủ yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa thủ công nghiệp (chiếm 40,6% DN của cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến (20,9%), xây dựng (13,2%) và các ngành còn lại như kinh doanh bất động sản, tư vấn, khách sạn, nhà hàng (25,3%). Có nhiều loại hình DN khác nhau, nếu phân loại DN theo hình thức sở hữu thì có DN tư nhân, DN nhà nước, DN liên doanh, DN cổ phần… Nếu phân loại theo quy mô nguồn vốn thì có DN lớn và DNV&N. Trong đề tài này, tôi muốn đề cập đến DNV&N vì đây là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống các DN và đây cũng là những DN đóng góp một vai trò không nhỏ trong nền kinh tế. Nếu chúng ta có một định hướng đúng đắn đối với các DNV&N thì sẽ có một sự thúc đẩy phát triển kinh tế to lớn, từ đó làm điểm tựa vững chắc để đưa đất nước phát triển. Hiện nay, các DNV&N tập trung chủ yếu ở thành thị ,chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng ... và các tỉnh thuộc khu vức đồng bằng bắc bộ. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, số lượng DNV&N ngày càng tăng mạnh. Như tên gọi của mình, DNV&N mang những đặc điểm riêng rất khác biệt so với các DN lớn trên thị trường. DNV&N mang nhưng đặc trưng cơ bản sau: * Các DNV&N chiếm số lượng lớn trên thị trường, và tốc độ gia tăng cao Theo luật DN quy định, việc thành lập DNV&N yêu cầu số vốn thành lập nhỏ, vì vậy số lượng DNV&N chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Với ưu điểm là vốn điều lệ thấp, điều này đã tạo một động lực to lớn cho các tổ chức kinh tế tư nhân đứng ra thành lập DN của mình. Mặt khác, từ trước đó đã tồn tại không ít các DN nhà nước có quy mô vốn nhỏ, lao động ít như các hợp tác xã, các DN nhà nước mới thành lập hoặc được tách ra…Với đặc điểm là vốn pháp định nhỏ như vậy, số lượng các DNV&N đã chiếm phần lớn về số lượng trong nền kinh tế và có tốc độ gia tăng cao. * Các DNV&N có quy mô vốn nhỏ, lao động ít Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng nếu xét về quy mô vốn của các DNV&N trong những năm gần đây thì lại rất thấp, mới ở mức trung bình trên 2 tỷ đồng/DN. Theo quy định của Luật DN, DNV&N là các DN có số vốn pháp định không vượt quá 10 tỷ, có số lao động không vượt quá 300 lao động. Với số vốn nhỏ như vậy, các DN gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và nhất là khó khăn trong việc cạnh tranh với các DN lớn sản xuất cùng một loại sản phẩm trong thị trường. Nhất là khi nền kinh tế có biến động lớn, ví dụ biến động về đầu vào, DNV&N khó có khả năng chống đỡ và dễ dẫn đến bị phá sản. Đồng thời, với số lao động ít, các DNV&N sẽ gặp nhiều cản trở trong quá trình sản xuất kinh doanh và mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhất là với tình trạng ít lao động, DNV&N sẽ khó có được các lao động với tay nghề cao. Với số lao động ít như vậy, sẽ khó mở các lớp đào tạo nâng cao tay nghề nghiệp vụ cho các nhân viên. Mặt khác đa số người lao động, nhất là người lao động có tay nghề nghiệp vụ, trình độ chuyên môn giỏi, khi tìm kiếm việc làm đều có xu hướng muốn vào các DN lớn trên thị trường, điều này khiến các DNV&N gặp khó khăn trong quá trình tuyển dụng lao động và phải đầu tư nhiều hơn cho công tác marketing tuyển dụng lao động. * Đa số các DNV&N là các DN ngoài quốc doanh Các DNV&N chủ yếu là các DN tư nhân (chiếm khoảng 80%) do đặc điểm về quy mô vốn và số lượng lao động nhỏ. Điều này tạo khó khăn cho việc quản lý các DNV&N. Nhất là đối với các DN tư nhân hoạt động linh hoạt nhưng kém hiệu quả. Các DN tư nhân thường khi thành lập và trong quá trình hoạt động chưa có một tầm nhìn chiến lược hoạt động cho DN của mình. Và trong khi vận hành sản xuất kinh doanh, khi că một biến cố xảy ra thì không có kinh nghiệm chống đỡ hoặc không đủ khả năng chống đỡ, dẫn đến thua lỗ hoặc nặng hơn là phá sản. Việc quản lý các DN tư nhân cũng rất khó khăn. Nhiều DN còn cố tình làm ăn phi pháp, cố tình trốn thuế và không thực hiện đúng chế độ kế toán thống kê. Để quản lý tốt các DNV&N, đòi hỏi một sự theo dõi sát sao và thực sự có hiệu quả. Như vậy có thể mới kiểm soát được hoạt động của loại hình DN này. * Kinh nghiệm hoạt động còn chưa nhiều Không kể các DN nhà nước vừa và nhỏ đã thành lập lâu đời và hoạt động ổn định, đa số các DNV&N đều là các DN tư nhân được thành lập trong hoặc sau thời kỳ mở cửa nền kinh tế hoặc là các DN Nhà nước vừa được tách ra. Với những DNV&N thành lập khá lâu mà hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có hiệu quả, họ sẽ dần dần mở rộng nguồn vốn của mình và đứng vào hàng ngũ những DN lớn. Như vậy, kinh nghiệm hoạt động của loại hình DN này chưa nhiều. Với số vốn ít và bề dày kinh nghiệm hạn chế, các DNV&N gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, chống đỡ với những thay đổi trong quá trình hoạt động của mình. * Trình độ công nghệ và phương pháp quản lý lạc hậu Đây là vấn đề nổi cộm đối với tổng thể các DN của nước ta do đặc điểm nền kinh tế chưa thực sự phát triển. Ở DN hiện nay, một thực trạng phổ biến trong các DNV&N là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu, khoảng 10-15 năm trong ngành điện tử, 15 năm đối với ngành cơ khí, 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 15 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 - 50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp. Nhiều DNV&N rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý DN, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường. Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các DNV&N của trước áp lực cạnh tranh quốc tế. * Các DNV&N hoạt động linh hoạt, năng động Trong nền kinh tế, các DNV&N là những thành phần hoạt động linh hoạt nhất. Với mỗi thay đổi nhỏ nhất của nền kinh tế, các DNV&N đều chịu tác động và phải điều chỉnh hoạt động của mình để phù hợp với mỗi biến đổi đó. Với tính năng động như vậy, các DNV&N đã đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình và đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế. Sự đa dạng về loại hình hoạt động, phương thức quản lý, sản phẩm của các DNV&N giúp cho họ đứng vững được trong thị trường. 1.1.2. Hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp Vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả đi vay và cho vay. Tuy nhiên tín dụng khi gắn với chủ thể là NH thì tín dụng NH nghĩa là NH cho vay. Tín dụng được xem xét là một chức năng cơ bản của NH, vì vậy trên cở sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của NH thì tín dụng có thể dược hiểu như sau : Tín dụng là một quan hệ về tài sản (tiền hoặc tài sản) giữa bên cho vay (Ngân hàng) và bên đi vay (Doanh nghiệp Vừa và nhỏ), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, đồng thời bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NH, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất. Ở các nước trên thế giới thì hoạt động tín dụng chiếm 50-60% lợi nhuận, còn ở thì chiếm tới 60-70%. Song song với hoạt động huy động vốn, tín dụng tạo ra nguồn lợi nhuận chính duy trì hoạt động của NH. Hoạt động tín dụng NH được dựa trên quyết định của thống đốc NH nhà nước số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với DN. Theo đó quan hệ tín dụng giữa Doanh nghiệp và NH có thể hiểu như sau: Doanh nghiệp phải cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định. Các khoản tín dụng của NH chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của DN cùng khách hàng và các khoản vay mượn khác. Bản thân NH cũng có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho các khoản mượn nói trên. NH thu lợi nhuận là nhờ thu chênh lệch lãi suất cho vay và đi vay, đồng thời sử dụng vốn vay để thực hiện hoạt động khác như đầu tư, tài trợ… Như vậy, để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, NH phải yêu cầu DN thực hiện đúng cam kết này. Doanh nghiệp phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận với NH, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của NH cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các NH, và mỗi NH đều có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Do vậy, khi cho cấp tín dụng trong phạm vi hoạt động của mình, NH yêu cầu DN phải sử dụng vốn đúng mục đích như đã thoả thuận với NH. NH tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Phương án hoạt động của DN đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi của NH. Mặt khác, để đảm bảo đòi được nợ, các NH thường yêu cầu tài sản đảm bảo với mỗi khoản vay. Các hoạt động tín dụng đối với DNV&N của Ngân hàng thương mại Hoạt động tín dụng NH được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. NH tiến hành phân loại tín dụng để dễ quản lý các khoản tín dụng và nhằm đa dạng hoá tín dụng nhằm thoả mãn nhu cầu của DN. Phân loại tín dụng để NH quyết định lãi suất cho vay, cũng như loại hình cho vay thích hợp với mỗi loại tín dụng khác nhau. Việc xác định phương thức cho vay có một ý nghĩa rất quan trọng của quá trình cấp tín dụng choĐNN. Nếu xác định đúng phương thức cho vay cho từng DN từ đú sẽ tạo ra yếu tố tích cực giúp cho DN thuận lợi trong quá trình giao dịch và chủ động về tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh và thuận lợi để thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, khuyến khích được DN về quan hệ vay vốn với NH, Ngân hàng chủ động trong việc cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Nếu xác định sai phương thức cho vay sẽ dẫn đến NH không kiểm soát chặt chẽ được số vốn cho vay làm tăng rủi ro tín dụng, không khuyến khích được DN vay vốn. Hiện nay các NH thường áp dụng các phương thức cho vay sau * Cho vay thấu chi Cho vay thấu chi là nghiệp vu cho vay qua đó NH cho phép người vay được chi trội tren số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi, DN làm đơn xin NH hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho NH ). Trong quá trình hoạt động, DN có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi DN có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, NH sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà DN phải trả là : Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi. Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của DN không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu c
Tài liệu liên quan