Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản thị phần và số lượng các ngân hàng. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta không ngừng phát triển, cơ chế thị trường ngày càng được hoàn thiện hơn cùng với việc nước ta hội nhập kinh tế khu vực và thế giới thì cạnh tranh trên mọi lĩnh vực nói chung và trong ngành Ngân hàng là tất yếu và ngày càng mạnh mẽ. Trước yêu cầu đổi mới đó ngành Ngân hàng nói chung và Chi nhánh Ngân hàng công thương Bến Thủy nói riêng có nhiều cơ hội phát triển đồng thời phải đối mặt với nhiều thách thức. Vì vậy, hệ thống Ngân hàng cũng không ngừng đổi mới và từng bước hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu mới. Trong những năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu để trưởng thành Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thủy đã xác lập vững chắc thị tường kinh doanh nhanh chóng chuyển hướng đầu tư và hòa nhập với cơ chế một cách mạnh mẽ, nguồn vốn tăng trưởng nhanh các nghiệp vụ ngày càng được hoàn thiện, hoạt động tín dụng không ngừng đổi mới phát triển. Tuy nhiên nhìn vào kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua chất lượng tín dụng vẫn còn thấp khoản nợ tồn đọng từ những năm trước chưa xử lý hết, nợ quá hạn vẫn còn phát sinh.Điều này đòi hỏi Chi nhánh phải có những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín dụng của Chi nhánh và nhận thức được tính cấp bách của vấn đề, sau thời gian thực tập và nghiên cứu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thủy, tôi đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thủy” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề này gồm 3 chương:
Chương I: Phương pháp luận để nghiên cứu đề tài
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT Bến Thủy
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT Bến Thủy
58 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thủy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản thị phần và số lượng các ngân hàng. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta không ngừng phát triển, cơ chế thị trường ngày càng được hoàn thiện hơn cùng với việc nước ta hội nhập kinh tế khu vực và thế giới thì cạnh tranh trên mọi lĩnh vực nói chung và trong ngành Ngân hàng là tất yếu và ngày càng mạnh mẽ. Trước yêu cầu đổi mới đó ngành Ngân hàng nói chung và Chi nhánh Ngân hàng công thương Bến Thủy nói riêng có nhiều cơ hội phát triển đồng thời phải đối mặt với nhiều thách thức. Vì vậy, hệ thống Ngân hàng cũng không ngừng đổi mới và từng bước hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu mới. Trong những năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu để trưởng thành Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thủy đã xác lập vững chắc thị tường kinh doanh nhanh chóng chuyển hướng đầu tư và hòa nhập với cơ chế một cách mạnh mẽ, nguồn vốn tăng trưởng nhanh các nghiệp vụ ngày càng được hoàn thiện, hoạt động tín dụng không ngừng đổi mới phát triển. Tuy nhiên nhìn vào kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua chất lượng tín dụng vẫn còn thấp khoản nợ tồn đọng từ những năm trước chưa xử lý hết, nợ quá hạn vẫn còn phát sinh...Điều này đòi hỏi Chi nhánh phải có những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín dụng của Chi nhánh và nhận thức được tính cấp bách của vấn đề, sau thời gian thực tập và nghiên cứu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thủy, tôi đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thủy” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề này gồm 3 chương:
Chương I: Phương pháp luận để nghiên cứu đề tài
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT Bến Thủy
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT Bến Thủy
CHƯƠNG I
PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Tổng quan về NHTM và tín dụng.
NHTM và hoạt động của NHTM
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân hàng.
Khi nghiên cứu về NHTM các nhà kinh tế học có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM. Người thì cho rằng: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức nhận tiền gửi để cho vay”. Người khác lại nhận định rằng: “Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính có giấy phép của chính phủ để vay tiền và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thẻ dùng séc”. Sở dĩ có tình trạng trên là do hoạt động của Ngân hàng thương mại rất đa dạng, các thao tác trong nghiệp vụ lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế.
Theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, là dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cugn ứng các dịch vụ thanh toán”.
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển , ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hnàg hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”.
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, ngân hàng là một trong những trung gian tài chính quan trọng nhất thực hiện chuyển tiết kiệm thành đầu tư, thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn và cung cấp các công cụ tài chính đa dạng cho người đầu tư và sử dụng vốn, thúc đẩy quá trình sản xuất và kinh doanh phát triển kinh tế đất nước.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân hộ gia đình và các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tai Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh nghiệp cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp để phục vụ mua hàng hoá, đầu tư tài sản cố định, mở rộng sản xuất, thực hiện chức năng thanh toán và tư vấn cho các doanh nghiệp. Các khoản tín dụng Ngân hàng cho Chính Phủ là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển khi khả năng tích luỹ của các doanh nghiệp chưa cao.
Các hoạt động cơ bản của NHTM
Từ khi ra đời và phát triển các NHTM ngày càng trở nên đa năng hơn và thực hiện nhiều hoạt động hơn:
Hoạt động huy động vốn: là hoạt động quan trọng của Ngân hàng nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế mang lại nguồn vốn cho Ngân hàng. Ngân hàng thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm chủ yếu là các dịch vụ tài khoản: tài khoản tiết kiệm, tài khoản thanh toán. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữu hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó Ngân hàng huy động tiền gửi của các doanh nghiệp tổ chức và dân cư. Nguồn này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn tiền của Ngân hàng. Khi lượng tiền gửi không đáp ứng nhu cầu vốn trong nền kinh tế, Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ đi vay bằng cách phát hành trái phiếu, vay ngân hàng Nhà nước. Vay NHNN nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của Ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ bắt buộc NHTM thường vay NHNN.
Hoạt động cho vay và đầu tư
Ngân hàng thương mại đầu tư vào chứng khoán với mục tiêu thanh khoản và đa dạng hoá tài sản. Là hoạt động mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết.
Hầu hết nguồn vốn mà ngân hàng huy động được sẽ đưa vào hoạt động tín dụng. Đây là hoạt động kinh doanh chính tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng diễn ra bao gồm hai đối tượng: một bên là Ngân hàng, một bên là các doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân, ngân hàng chuyển giao tạm thời quyền sử dụng vốn cho bên đi vay và sau một khoảng thời gian nhất định theo thời gian thoả thuận bên đi vay phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Ngân hàng còn thực hiện uỷ thác, bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê.
Các hoạt động khác: - Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác của cùng một ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau thông qua công cụ như séc, lệnh chi..
Dịch vụ thu hộ, chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng.
Dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu
Khái niệm và các căn cứ để phân loại tín dụng
Khái niệm
Để đưa ra một khái niệm rõ ràng về tín dụng thì rất khó, tùy theo từng góc độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định được khái niệm tín dụng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể được hiểu theo các nghĩa sau:
- Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
- Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả đi vay và cho vay. Tuy nhiên khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như Ngân hàng ví dụ như tín dụng ngân hàng thì chỉ bao hàm nghĩa là Ngân hàng cho vay.
Tín dụng được định nghĩa là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Qua định nghĩa ta có thể thấy rằng trong quan hệ tín dụng người cho vay chỉ nhường quyền sử dụng cho người đi vay, sau một thời gian nhất định theo thoả thuận người đi vay sẽ hoàn trả lại cho người cho vay. Sự hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà vốn tín dụng còn được tăng thêm dưới hình thức lợi tức.
Khi xem xét tín dụng như một chức năng cơ bản của Ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Các căn cứ để phân loại tín dụng
Có nhiều căn cứ để phân loại tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của Ngân hàng. Sau đây là một số căn cứ để phân lọai tín dụng:
Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
+ Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đây là loại hình ít rủi ro cho ngân hàng vì trong một thời gian ngắn ít có những biến động xảy ra và ngân hàng luôn dự tính được những biễn động đó. Nó bao gồm tín dụng chiết khấu, tín dụng thấu chi, tín dụng ứng trước, tín dụng bổ sung vốn lưu động.
+ Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm là loại tín dụng chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập. Nó bao gồm các hình thức chủ yếu sau: tín dụng thực hiện theo dự án, tín dụng hợp vốn, tín dụng cho thuê tài chính.
+ Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng qui mô sản xuất với qui mô lớn. Loại tín dụng này thường có mức độ rủi ro cao, do khó lường trước những biến động xẩy ra.
Căn cứ vào tài sản đảm bảo:
+ Tín dụng có đảm bảo: yêu cầu Ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng bảo đảm, Ngân hàng phải kiểm tra đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả ănng bán…) có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo.
+ Tín dụng không cần đảm bảo: có thể chấp nhận cho khách hàng có uy tín là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi tình hình tài chính vững mạnh.
Căn cứ vào hình thức tài trợ:
+ Chiết khấu là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn
+ Cho vay là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải trả cả gốc và lãi theo thời gian xác định, cho vay là tài khoản lớn nhất trong khoản mục tín dụng, cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà Ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ.
+ Bảo lãnh là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình, mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài khoản ngoại bảng đó là giá trị Ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng của mình.
+ Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản cho khách hnàg thuê theo thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng
Căn cứ khác:
+ Theo nghành kinh tế: (tín dụng công nghiệp, nông nghiệp...)
+ Theo đối tượng tín dụng: (tài sản lưu động, tài sản cố định)
+ Theo mục đích: (sản xuất, tiêu dùng...)
Cách phân laọi này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Cách phân laọi trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng
Tín dụng ngân hàng không chỉ có vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng mà còn đóng vai trò dẫn vốn trong nền kinh tế. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ có kinh nghiệm trong việc nắm bắt thị trường và thẩm định dự án đầu tư. Do vậy, ngân hàng tài trợ vốn đầu tư cho các doanh nghiệp vừa đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp, ngân hàng phat huy hết khả năng và năng lực của mình.
- Đối với ngân hàng: tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, phần lớn nguồn vốn huy động được dùng để sử dụng vào hoạt động tín dụng. Mặt khác hoạt động tín dụng mang lại nguốn thu nhập chủ yếu cho NHTM, vì vậy hoạt động tín dụng có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển đối với ngân hàng. Nó cũng là cơ sở quan trọng để NHTM phát triển các hoạt động khác như: hoạt động huy động vốn, mua bán các giấy tờ có giá, dịch vị thanh toán và các dịch vụ khác…
- Đối với khách hàng: Trong nền kinh tế nhu cầu vốn đối với các doanh nghiệp là rất lớn. Tín dụng ngân hàng có sự đáp ứng tối ưu về nhu cầu vốn cả về độ lớn và kịp thời cho hoạt động kinh doanh. Để cạnh tranh tốt trong thương trường hiện nay các doanh nghiệp cần có sự nhạy bén nắm bắt thị trường để đưa ra mục tiêu sản xuất cái gì cho ai, ai là đối tượng khách hàng của họ vốn bây giờ trở thành vấn đề sống còn đói với doanh nghiệp và tín dụng ngân hàng trở thành một lực đẩy cần thiết cho các doanh nghiệp.
- Đối với nền kinh tế: hoạt động tín dụng tạo ra thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, tạo ra nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước.
Tín dụng ngân hàng là côgn cụ để Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế ngân hàng là chủ thể của cugn tiền tệ đó là chức năng tạo tiền của ngân hàng.
1.1.2.1. Tín dụng ngân hàng góp phần mở rộng sản xuất và đầu tư phát triển
Không một Doanh nghiệp nào không vay vốn Ngân hàng nếu Doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của Doanh nghiệp. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay các Doanh nghiệp cần phải mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ làm cho năng lực sản xuất kinh doanh tăng lên sản phẩm sản xuất ra đa dạng về mẫu mã chủng loại phong phú về chất lượng phù hợp với sự phát triển xã hội. Để làm được điều đó Doanh nghiệp cần đến vốn tín dụng của Ngân hàng.
Khi dự án thành công sẽ tạo nên khôgn gian đầu tư rộng lớn, có sức hấp dẫn cho nhà đầu tư trong và ngoài nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển, làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, tăng nguồn thu ngân sách thông qua thuế làm sôi động khả năng cạnh tranh cùgn phát triển trong nền kinh tế thị trường. Bản thân ngân hàng có điều kiện phát triển mở rộng thị trường vốn.
1.1.2.2. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội
Ngân hàng là “cầu nối” giữa người có vốn dư thừa và người cần vốn thông qua viêc huy động các khoản vốn nhàn rỗi trong xã hôi hình thành nên quỹ cho vay rồi đem cho vay trong nền kinh tế. Chính nhờ có hoạt động tín dụng mà các chủ thể thặng dư vốn có cơ hội tiết kiệm khoản vốn của mình đồng thời còn tạo thu nhập từ thu lãi.
Thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, góp phần điều hòa vốn trong nền kinh tế từ nơi thừa đến nơi thiếu.
NHTM tập trung một số lớn nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội để hình thành quỹ cho vay hay nguồn vốn tín dụng. Các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, nhàn rỗi có kỳ hạn hay lâu dài được tập trung vào ngân hàng bằng cơ chế lãi suất khac nhau. Đây là quá trình phân phối lại vốn tiền tệ theo các nguyên tắc tín dụng và các quy định của pháp luật về tín dụng hiện hành.
1.1.2.3. Tín dụng thúc đẩy mở rộng xuất nhập khẩu và quan hệ đối ngoại
Hiện nay nền kinh tế mở cửa, nền kinh tế nước ta cũng hòa nhập cùng với sự phát triển kinh tế của khu vực và trên thế giới. Tín dụng ngân hàng là cầu nối nền kinh tế giữa các quốc gia qua việc hỗ trợ cho vay đầu tư của các nước phát triển vào các nước đang phát triển.
Mặt khác, nhờ có tín dụng mà các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, nhập khẩu máy móc và dây chuyền công nghệ nước ngoài làm cho năng lực sản xuất tăng lên, sản phẩm chất lượng tốt, mẫu mã đẹp có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
1.1.2.4. Tín dụng đảm bảo kinh tế phat triển theo chiều sâu, thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế theo hướng CNH – HĐH
Nền kinh tế càng phát triển, hàng hoá được sản xuất càng nhiều thì nhu cầu của con người không ngừng nâng cao. Một doanh nghiệp muốn phát triển phải tìm mọi khả năng thoả mãn những nhu cầu đó. Cũng có nghĩa Doanh nghiệp phải khôgn ngừng đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm và muốn vậy doanh nghiệp phải có vốn. Nguồn vốn ngắn hạn đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời trong doanh nghiệp, vốn trung dài hạn giúp doanh nghiệp mua sắm dây chuyền sản xuất hiện đại, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng…Công nghiệp hoá không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới cơ bản về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung giai đoạn đầu của tiến trình CNH – HĐH là tập trung vốn đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, máy móc chuyển dịch nền kinh tế, phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng và chiều sâu. Như vậy trong điều kiện kinh tế như hiện nay cũng như thời gian tới tín dụng của NHTM vẫn đóng vai trò quyết định trong giai đoạn đầu thực hiện CNH – HĐH.
1.2. Chất lượng tín dụng
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là vấn đề mà tất cả các ngân hàng phải quan tâm, các rủi ro tín dụng nếu xẩy ra thì sẽ tác động xấu đến uy tín của ngân hàng và nguy cơ đó sẽ hoạt động kém hiểu quả trong tương lai là đương nhiên, thậm chí đe doạ sự tồn tại của NHTM và cả hệ thống ngân hàng nếu rủi ro đó bản thân ngân hàng không thể xử lý được
Chất lượng tín dụng trước tiên là sự an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, phải được thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận gia tăng, dư nợ ngày càng tăng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý. Chất lượng tín dụng thể hiện khả năng thu hồi đầy đủ đúng hạn cả vốn gốc và lãi theo dự định, hiệu quả và khả năng thu hồi nợ càng lớn thì chất lượng tín dụng càng cao.
Chất lượng tín dụng còn là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Đối với mỗi Ngân hàng thương mại hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của mình. Nó mang lại thu nhập phần lớn cho các Ngân hàng, ngoài ra nó thúc đẩy mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh, tăng quy mô nguồn vốn huy động. Chính vì vậy mà chất lượng tín dụng rất được các Ngân hàng quan tâm, không có một chỉ tiêu tổng hợp nào có thể phản ánh nó một cách chính xác mà các Ngân hàng thường phân tích tổng hợp tất cả các chỉ tiêu để từ đó đưa ra kết luận về chất lượng tín dụng. Sau đây là một số chỉ tiêu cơ bản hay được sử dụng:
1.2.2.1. Chỉ tiêu thu nhâp từ hoạt động tín dụng
Theo thống kê thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm khoảng 90% trong tổng thu nhập của các Ngân hàng. Chỉ tiêu này sẽ chỉ ra rằng trong tổng thu nhập thì thu nhập từ hoạt động tín dụng đóng góp bao nhiêu và chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng không thể nói là cao nếu lợi nhuận do hoạt động này mang lại thấp. Khi tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng tr