Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu đang được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm bởi nó tác động to lớn đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong xu hướng đó có thể nhận thấy hoạt động kinh tế đối ngoại mà ngoại thương là trọng tâm diễn ra mạnh mẽ hơn cả. Ngoại thương tạo điều kiện cho mỗi nước tranh thủ tận dụng nguồn lực bên ngoài kết hợp với nội lực để tạo thành sức mạnh thúc đẩy nền kinh tế nước nhà.
Ngày 7/11/2006 Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đây có thể coi là một bước ngoặt quan trọng đối với một đất nước đang trên đà phát triển như Việt Nam, tạo ra thế và lực phát triển mới. Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang không ngừng tận dụng tối đa cơ hội mà hội nhập kinh tế đem lại để có thể đứng vững và vươn lên trong môi trường cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt. Trong đó đặc biệt phải kể đến các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu vì môi trường kinh doanh của các công ty này không chỉ giới hạn quốc gia mà còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố quốc tế.
Là một trong những doanh nghiệp Nhà nước có uy tín lâu năm về lĩnh vực xuất nhập khẩu vật tư thiết bị xi măng trên thị trường trong nước và quốc tế, Công ty xuất nhập khẩu xi măng VINACIMEX cũng không đứng ngoài xu thế hội nhập đó. Quá trình thực tập tại công ty đã giúp em có cơ hội tìm hiểu rõ hơn về những thuận lợi công ty đạt được, cũng như những khó khăn mà công ty đã và đang phải đối mặt trong bối cảnh hiện nay. Qua hơn 15 năm hoạt động, công ty đã không ngừng xây dựng và đổi mới nhằm duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh, phát huy lợi thế cạnh tranh để đáp ứng nhu cầu thị trường ngày một tốt hơn. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề mà Công ty cần phải nghiên cứu và tổ chức một cách hợp lý để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh
76 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
**************
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài :
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA
CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU XI MĂNG
Giảng viên hướng dẫn : TS. Mai Thế Cường
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thùy Linh
Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh quốc tế
Lớp : Kinh doanh quốc tế B
Khóa : 46
Hệ : Chính quy
HÀ NỘI, NĂM 2008
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC..........................................................................................................................i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT.........................................................................iii
DANH MỤC CÁC BIỂU..............................................................................................iv
DANH MỤC CÁC HÌNH..............................................................................................v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Tên đầy đủ
1
CP
Chi phí
2
DT
Doanh thu
3
LN
Lợi nhuận
4
SXKD
Sản xuất kinh doanh
5
Tr.đ
Triệu đồng
6
VLCL
Vật liệu chịu lửa
7
VP
Văn phòng
8
VLĐ
Vốn lưu động
9
XNK
Xuất nhập khẩu
10
XMCL
Xi măng – clinker
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu theo thị trường 2005-2007...............29
Bảng 2.2 Cơ cấu lao động theo bộ phận chức năng...............................................30
Bảng 2.3 Cơ cấu vốn của Công ty 2005-2007.........................................................32
Bảng 2.4 Kết quả hoạt động kinh doanh 2005-2007..............................................33
Bảng 2.5 Kim ngạch nhập khẩu theo hình thức nhập khẩu 2005-2007.............34
Bảng 2.6 Kim ngạch nhập khẩu theo sản phẩm 2005-2007.................................36
Bảng 2.7 Chỉ tiêu lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận...................................................39
Bảng 2.8 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động.................................................42
Bảng 2.9 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động.........................................................45
Bảng 2.10 So sánh chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh...................................................48
Bảng 2.11Kế hoạch nhập khẩu năm 2008 theo mặt hàng....................................55
Bảng 2.12 Kế hoạch tài chính năm 2008.................................................................55
Bảng 2.13 Dự báo nhu cầu xi măng toàn quốc.......................................................58
Bảng 2.14 Cam kết về thuế nhập khẩu xi măng của Việt Nam............................58
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1 Cơ cấu tổ chức công ty XNK xi măng.....................................................26
Hình 2.2 Kim ngạch nhập khẩu theo hình thức nhập khẩu 2005-2007.............35
Hình 2.3 Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu 2005-2007..................................................37
Hình 2.4 Tăng trưởng lợi nhuận nhập khẩu 2005-2007......................................39
Hình 2.5 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu nhập khẩu 2005-2007.....................40
Hình 2.6 Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí nhập khẩu 2005-2007...........................41
Hình 2.7 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn nhập khẩu 2005-2007........................42
Hình 2.8 Số vòng quay vốn lưu động nhập khẩu 2005-2007................................43
Hình 2.9 Thời gian 1 vòng quay vốn lưu động nhập khẩu 2005-2007................44
Hình 2.10 Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động nhập khẩu 2005-2007......................45
Hình 2.11 Doanh thu bình quân 1 lao động nhập khẩu 2005-2007....................45
Hình 2.12 Mức sinh lời 1 lao động nhập khẩu 2005-2007....................................46
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu đang được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm bởi nó tác động to lớn đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong xu hướng đó có thể nhận thấy hoạt động kinh tế đối ngoại mà ngoại thương là trọng tâm diễn ra mạnh mẽ hơn cả. Ngoại thương tạo điều kiện cho mỗi nước tranh thủ tận dụng nguồn lực bên ngoài kết hợp với nội lực để tạo thành sức mạnh thúc đẩy nền kinh tế nước nhà.
Ngày 7/11/2006 Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đây có thể coi là một bước ngoặt quan trọng đối với một đất nước đang trên đà phát triển như Việt Nam, tạo ra thế và lực phát triển mới. Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang không ngừng tận dụng tối đa cơ hội mà hội nhập kinh tế đem lại để có thể đứng vững và vươn lên trong môi trường cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt. Trong đó đặc biệt phải kể đến các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu vì môi trường kinh doanh của các công ty này không chỉ giới hạn quốc gia mà còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố quốc tế.
Là một trong những doanh nghiệp Nhà nước có uy tín lâu năm về lĩnh vực xuất nhập khẩu vật tư thiết bị xi măng trên thị trường trong nước và quốc tế, Công ty xuất nhập khẩu xi măng VINACIMEX cũng không đứng ngoài xu thế hội nhập đó. Quá trình thực tập tại công ty đã giúp em có cơ hội tìm hiểu rõ hơn về những thuận lợi công ty đạt được, cũng như những khó khăn mà công ty đã và đang phải đối mặt trong bối cảnh hiện nay. Qua hơn 15 năm hoạt động, công ty đã không ngừng xây dựng và đổi mới nhằm duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh, phát huy lợi thế cạnh tranh để đáp ứng nhu cầu thị trường ngày một tốt hơn. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề mà Công ty cần phải nghiên cứu và tổ chức một cách hợp lý để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu và đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu xi măng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu xi măng từ năm 2005 đến 2007 với hai hình thức nhập khẩu chính là nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu ủy thác.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập - thống kê - tổng hợp số liệu: Trong đề tài này đòi hỏi cần phải có những số liệu trong những năm gần đây, các số liệu được tập hợp, thu thập từ các báo cáo, tài liệu của cơ quan thực tập, các thông tin trên báo, đài, internet…Sau đó tiến hành thống kê, tổng hợp lại cho có hệ thống để phân tích.
- Phương pháp so sánh: Là phương pháp xem xét một chỉ tiêu dựa trên việc so sánh với một chỉ tiêu cơ sở, qua đó xác định xu hướng biến động của chỉ tiêu cần phân tích. Tùy theo mục đích phân tích, tính chất và nội dung của các chỉ tiêu kinh tế mà ta có thể sử dụng các kỹ thuật so sánh thích hợp như so sánh tuyệt đối, so sánh tương đối.
- Phương pháp liên hệ: Để lượng hóa các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế. Có nhiều cách liên hệ như liên hệ cân đối, liên hệ tuyến tính, liên hệ phi tuyến…Bài viết này sử dụng phương pháp liên hệ tuyến tính là liên hệ theo một hướng xác định giữa các chỉ tiêu. Chẳng hạn lợi nhuận có quan hệ cùng chiều với doanh thu, giá bán… có quan hệ ngược chiều với chi phí.
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng hình và tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày thành ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
NHẬP KHẨU
1.1 TỔNG QUAN VỀ NHẬP KHẨU VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm hoạt động nhập khẩu
1.1.1.1 Khái niệm về nhập khẩu
Nhập khẩu là một trong hai bộ phận cấu thành của hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu có tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu để bổ sung các hàng mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế cho những hàng hóa mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu
Từ điển Kinh tế học hiện đại của Học viện Công nghệ Massachuset định nghĩa “Hàng nhập khẩu là hàng hóa hoặc dịch vụ được tiêu dùng ở một nước nhưng mua ở nước khác”.
Khoản 2, điều 28, chương 2 luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định “Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”.
Như vậy bản chât của nhập khẩu là việc mua bán hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận và kết nối sản xuất với tiêu dùng.
1.1.1.2 Đặc điểm cơ bản của hoạt động nhập khẩu
Kinh doanh nhập khẩu có những đặc trưng riêng, khác với kinh doanh nội địa. Những đặc trưng này có ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
- Về thị trường: Thị trường nhập khẩu rất đa dạng. Mỗi quốc gia có lợi thế so sánh trong sản xuất những mặt hàng nhất định. Do vậy nhà nhập khẩu có rất nhiều cơ hội để lựa chọn thị trường cung cấp cho mình. Việc nhập khẩu hàng hóa từ thị trường nào cần tính đến những lợi ích thu được cũng như những chi phí phải bỏ ra khi nhập khẩu từ thị trường đó.
- Về môi trường pháp luật: Kinh doanh nhập khẩu chịu sự chi phối của hệ thống luật quốc gia và luật quốc tế. Giữa các nguồn luật này lại thường có sự mâu thuẫn, xung đột với nhau. Do đó khi tham gia kinh doanh nhập khẩu, mỗi doanh nghiệp cần nắm rõ nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu để tránh những tranh chấp phát sinh.
- Về phương thức thanh toán: Có nhiều phương thức khác nhau được sử dụng trong hoạt động thanh toán nhập khẩu như: Phương thức nhờ thu, phương thức chuyển tiền, phương thức tín dụng chứng từ...Việc thanh toán hàng nhập khẩu lại thường sử dụng các loại ngoại tệ nên chịu tác động lớn của tỷ giá hối đoái. Vì thế doanh nghiệp muốn kinh doanh nhập khẩu hiệu quả thì không thể không quan tâm đến các điều khoản thanh toán.
1.1.1.3 Các hình thức nhập khẩu
Hiện nay có nhiều hình thức nhập khẩu được áp dụng tùy thuộc vào mục tiêu và năng lực của doanh nghiệp. Dưới đây là một số hình thức nhập khẩu phổ biến ở Việt Nam:
Nhập khẩu trực tiếp
Là hình thức nhập khẩu mà bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, hàng hóa được mua trực tiếp từ nước ngoài mà không thông qua trung gian. Bên xuất khẩu trực tiếp giao hàng cho bên nhập khẩu.
Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp sẽ tự tiến hành các hoạt động tìm kiếm đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng, tự bỏ vốn kinh doanh hàng nhập khẩu, chịu mọi chi phí giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu kho lưu bãi, nộp thuế, tiêu thụ hàng hóa.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận cao hơn so với hình thức nhập khẩu ủy thác vì không phải chia sẻ lợi nhuận cho trung gian. Đồng thời doanh nghiệp có thể thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với nhà cung cấp. Tuy nhiên nhược điểm là độ rủi ro cao vì doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm với toàn bộ hoạt động của mình trong suốt quá trình nhập khẩu.
Nhập khẩu ủy thác
Là hình thức nhập khẩu thông qua trung gian thương mại. Bên ủy thác sẽ trả một khoản tiền gọi là phí ủy thác cho bên nhận ủy thác. Bên nhận ủy thác có trách nhiệm thực hiện đúng các nội dung được quy định trong hợp đồng ủy thác đã ký kết giữa các bên.
Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu ủy thác sẽ không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không cần quan tâm đến khâu tiêu thụ hàng hóa mà chỉ thay mặt cho bên ủy thác tiến hành giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng, làm thủ tục giao nhận cũng như làm thủ tục đòi khiếu nại, bồi thường với đối tác nước ngoài khi có tổn thất.
Ưu điểm của hình thức này là độ rủi ro thấp hơn nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp không mất nhiều chi phí. Song lợi nhuận từ hình thức nhập khẩu này lại không cao vì doanh nghiệp nhận ủy thác không được tính giá trị lô hàng giao cho bên ủy thác vào doanh thu của công ty mà chỉ được tính vào kim ngạch nhập khẩu. Khi hạch toán doanh thu, doanh nghiệp chỉ hạch toán phần phí ủy thác mà thôi.
Nhập khẩu liên doanh
Là hình thức kinh doanh nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp, trong đó có ít nhất một bên là doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp, nhằm phối hợp các kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu, hướng hoạt động này sao cho có lợi nhất cho tất cả các bên tham gia, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu lỗ theo tỷ lệ vốn góp liên doanh
Nhập khẩu hàng đổi hàng
Là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu, thanh toán trong hoạt động này không dùng tiền mà dùng hàng hóa. Mục đích của nhập khẩu hàng đổi hàng là vừa thu lãi từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu, vừa xuất khẩu được hàng hóa trong và ngoài nước
Nhập khẩu gia công
Là hình thức nhập khẩu theo đó bên nhập khẩu cũng chính là bên nhận gia công tiến hành nhập khẩu nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm về để tiến hành gia công theo hợp đồng ký giữa hai bên. Hàng hóa nhập khẩu có thể do bên đặt gia công bán đứt cho bên nhận gia công hoặc do bên đặt gia công chuyển sang cho.
1.1.2 Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Theo khoản 2, điều 4, chương I của Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 giải thích “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” Như vậy về bản chất mọi doanh nghiệp tham gia kinh doanh đều nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận ở mức tối đa. Muốn đạt được điều ấy, yêu cầu đặt ra là họ phải hợp lý hóa hoạt động kinh doanh của mình. Và để xem xét mức độ hợp lý hóa đó, người ta thường sử dụng thuật ngữ “hiệu quả kinh doanh”.
Cho đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về “hiệu quả kinh doanh” được nhắc đến, sự khác nhau này chủ yếu là do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu khác nhau đem lại. Tuy nhiên người ta có thể chia các quan điểm này thành các nhóm cơ bản sau:
Nhóm thứ nhất cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là kết quả thu được trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa. Theo quan điểm này, hiệu quả kinh doanh đồng nhất với kết quả kinh doanh và với các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh. Quan điểm này không đề cập đến chi phí kinh doanh, nghĩa là nếu hoạt động kinh doanh tạo ra cùng một kết quả thì có cùng một mức hiệu quả, mặc dù hoạt động kinh doanh đó có hai mức chi phí khác nhau.
Nhóm thứ hai cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Quan điểm này đã nói lên qua hệ so sánh một cách tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó, nhưng lại chỉ xét tới phần kết quả và chi phí bổ sung.
Nhóm thứ ba cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Quan điểm này đã phản ánh được mối liên hệ bản chất của hiệu quả kinh doanh, vì nó gắn được kết quả với chi phí bỏ ra, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên kết quả và chi phí đều luôn luôn vận động, nên quan điểm này chưa biểu hiện được mối tương quan về lượng và về chất giữa kết quả và chi phí.
Nhóm thứ tư cho rằng: Hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối quan hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó, đồng thời phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất. Quan điểm này đã chú ý đến sự so sánh giữa tốc độ vận động của kết quả và tốc độ vận động của chi phí. Mối quan hệ này phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp.
Các quan điểm trên thống nhất ở việc xem xét mối quan hệ giữa kết quả và chi phí, tuy nhiên nhược điểm của chúng là chưa phản ánh hết được bản chất của hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gắn rất chặt với hiệu quả kinh tế xã hội, vì thế nó cần được xem xét toàn diện về cả mặt định tính và định lượng. Xét về mặt lượng, hiệu quả phải gắn với việc thực hiện các mục tiêu chính trị xã hội môi trường nhất định. Do vậy chúng ta không thể chấp nhận việc các nhà kinh doanh tìm mọi cách để đạt được các mục tiêu kinh tế cho dù phải trả bất cứ giá nào. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ kinh doanh tiếp theo.
Trong luận văn này, hiệu quả kinh doanh được hiểu là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu kinh tế xã hội với chi phí thấp nhất.
1.1.3 Phân loại hiệu quả kinh doanh
1.1.3.1 Dựa vào phương pháp tính hiệu quả
Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối
phạm trù chỉ lượng hiệu quả của từng phương án kinh doanh, từng thời kỳ kinh doanh, từng doanh nghiệp bằng cách lấy chênh lệch giữa kết quả kinh doanh và chi phí tạo ra kết quả đó
Tổng lợi nhuận = Tổng kết quả - Tổng chi phí
Hiệu quả kinh doanh tương đối
phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp
Được xác định bằng cách so sánh các đại lượng thể hiện kết quả và chi phí.
H =
Công thức trên phản ánh sức sản xuất của các chỉ tiêu đầu vào
Hoặc
H =
Công thức trên phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có một đơn vị đầu ra thì hao phí hết bao nhiêu đơn vị chi phí
1.1.3.2 Dựa vào phạm vi tính toán hiệu quả
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp
hiệu quả kinh doanh được tính trong phạm vi toàn bộ doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh bộ phận
hiệu quả kinh doanh được tính đối với
từng bộ phận,
từng hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp
Từng yếu tố sản xuất.
1.1.3.3 Dựa vào thời gian mang lại hiệu quả
Hiệu quả kinh doanh trước mắt
xem xét trong một khoảng thời gian ngắn,
hiệu quả mang lại ngay khi chúng ta thực hiện hoạt động kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh lâu dài
xem xét, đánh giá trong một khoảng thời gian dài
hiệu quả mang lại sau khi thực hiện hoạt động kinh doanh một khoảng thời gian nhất định.
1.1.3.4 Dựa vào đối tượng xem xét hiệu quả
Hiệu quả do chính việc thực hiện hoạt động kinh doanh đó mang lại.
Hiệu quả do một hoạt động kinh doanh khác mang lại.
1.1.3.5 Dựa vào khía cạnh khác nhau của hiệu quả
Hiệu quả tài chính
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về khía cạnh kinh tế tài chính, biểu hiện mối quan hệ lợi ích mà doanh nghiệp nhận được trong kinh doanh và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được lợi ích đó
Hiệu quả chính trị - xã hội
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về khía cạnh chính trị - xã hội môi trường, sự đóng góp của nó vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích lũy ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tác động đến môi trường sinh thái và tốc độ đô thị hóa...
1.2 HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU
1.2.1 Khái niệm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Nghiên cứu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu về cơ bản cũng tương tự như nghiên cứu hiệu quả kinh doanh, chỉ khác nhau ở phạm vi nghiên cứu. Nếu hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp trong tất cả các hoạt động của doanh nghiệp thì hiệu quả kinh doanh nhập khẩu phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp trong hoạt động nhập khẩu mà thôi.
Xét trên giác độ doanh nghiệp: Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu chỉ có thể đạt được khi thu được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, thể hiện trình độ khả năng sử dụng các yếu tố nguồn lực cần thiết phục vụ cho quá trình kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
Xét trên giác độ xã hội: Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu chỉ có thể đạt được khi tổng lợi ích xã hội nhận được từ hàng hóa dịch vụ nhập khẩu lớn hơn chi phí bỏ ra để sản xuất những hàng hóa dịch vụ này trong nước, nghĩa là hoạt động nhập khẩu góp phần làm nâng cao hiệu quả lao động xã hội, tăng chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.
1.2.2 Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
1.2.2.1 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tổng hợp
Lợi nhuận nhập