DNNN (DNNN) có vai trò quan trọng đặc bi ệt trong nền kinh t ế đất nước,
đặc bi ệt trong giai đo ạn hiện nay sau các s ự cố đổ vỡ , kinh doanh sa sút c ủa m ột số
tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Đã có nhi ều DNNN thực hiện niêm yết c ổ phi ếu
trên TTCK và từ đây, bi ến động suy giảm mạnh của TTCK lại tác đ ộng đến cấu
trúc tài s ản và khả năng thanh toán c ủa các doanh nghi ệp này. Trong bối c ảnh đó,
th ực hi ện đầu tư tập trung vào lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh chính đang là
một chủ trương l ớ n nhằm gi ảm bớt rủi ro tài chính và r ủi ro kinh doanh cho các
DNNN.
Vớ i m ục đích cung c ấp thêm một đánh giá về chất lượng hàng hoá trên
TTCK trong mối liên h ệ vớ i các yếu tố nêu trên, bài vi ết này tập trung vào nghiên
cứu các đối tượng là DNNN hiện niêm yết trên hai SGD HOSE và HNX. Nội dung
nghiên cứu xoay quanh hai nhóm chỉ tiêu chính là cơ c ấu vốn-tình hình đ ầu tư và
khả năng thanh toán; từ đó rút ra các đánh giá về cấu trúc và khả năng huy động
vốn đi kèm vớ i nh ững rủi ro có thể gặp phải v ề thanh kho ản vốn và khả năng thanh
toán các kho ản nợ phải trả.
Cơ sở dữ li ệu cho nghiên cứu trong bài là các báo cáo tài chính có ý kiến
ki ểm toán gần nhất (báo cáo soát xét) của tổng số 162 DNNN niêm yết; trong đó
DNNN niêm yết được xác đị nh là các DN có v ốn do Nhà nước sở hữu trên 50% và
hi ện đang được niêm yết và giao d ị ch trên hai SGDCK trong nước. Phương pháp
nghiên cứu chủ yếu là tính toán, phân tích và so sánh các hệ số tài chính, bao gồm
các hệ số trung bình c ủa ngành. Như vậy, vi ệc phân loại DNNN theo ngành cũng là
một nhi ệm vụ trong báo cáo này đ ể tạ o thuận l ợ i cho việc phân tích và so sánh.
Tuy nhiên, phạm vi có hạn của m ột bài vi ết không tránh khỏ i nh ững hạn chế
như sau: i) Dữ li ệu báo cáo tài chính tin c ậy gần nhất là báo cáo tài chính nửa năm
(bán niên) năm 2011 nên báo cáo chỉ phản ánh thực trạng tài chính t ại th ờ i điểm
gi ữa năm 2011 c ủa các DNNN niêm yết; ii ) Chưa có một chu ẩn phân ngành được
4
công nhận rộng rãi trên TTCK Việt Nam nên phương pháp phân ngành trong báo
cáo được dựa trên chuẩn phân ngành ICB và có tham khảo cách phân loại c ủa m ột
số công ty chứng khoán. Đi ều này không tránh khỏi nh ững bất c ập và có thể không
phù hợp theo quan điểm của một s ố đơn vị khác;
1
iii) Các hệ số trung bình được
tính toán d ựa trên phương pháp bình quân giản đơn hoặc có gia quyền vớ i quyền
số là tổng tài sản hoặc tổng vốn chủ sở hữu tuỳ theo m ỗ i m ột hệ số khác nhau
nhằm đảm bảo chúng phản ánh được tốt nh ất ý nghĩa bình quân; và iv) S ố chia
trong các hệ số là giá tr ị t ại m ột thờ i đi ểm thay vì tính bình quân trong một kho ảng
th ờ i gian tương đương m ột k ỳ kế toán.
33 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu cơ cấu vốn và khả năng thanh toán của các doanh nghiệp nhà nƣớc niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
NGHIÊN CỨU CƠ CẤU VỐN VÀ KHẢ NĂNG
THANH TOÁN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN
Báo cáo chuyên đề số 5/2011
8/11/ 2011
Phòng Phân tích và Dự báo thị trƣờng
Trung tâm NCKH-ĐTCK (UBCKNN)
2
NỘI DUNG
I/ Mục đích và phƣơng pháp nghiên cứu...........................................................................................3
II/ Tổng quan các hệ số cơ cấu vốn và khả năng thanh toán của các DNNN niêm yết .......................4
III/ Cơ cấu vốn và khả năng thanh toán của các DNNN niêm yết theo ngành ...................................7
IV/ Kết luận ....................................................................................................................................24
PHỤ LỤC .......................................................................................................................................26
3
I/ Mục đích và phƣơng pháp nghiên cứu
DNNN (DNNN) có vai trò quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế đất nước,
đặc biệt trong giai đoạn hiện nay sau các sự cố đổ vỡ, kinh doanh sa sút của một số
tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Đã có nhiều DNNN thực hiện niêm yết cổ phiếu
trên TTCK và từ đây, biến động suy giảm mạnh của TTCK lại tác động đến cấu
trúc tài sản và khả năng thanh toán của các doanh nghiệp này. Trong bối cảnh đó,
thực hiện đầu tư tập trung vào lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh chính đang là
một chủ trương lớn nhằm giảm bớt rủi ro tài chính và rủi ro kinh doanh cho các
DNNN.
Với mục đích cung cấp thêm một đánh giá về chất lượng hàng hoá trên
TTCK trong mối liên hệ với các yếu tố nêu trên, bài viết này tập trung vào nghiên
cứu các đối tượng là DNNN hiện niêm yết trên hai SGD HOSE và HNX. Nội dung
nghiên cứu xoay quanh hai nhóm chỉ tiêu chính là cơ cấu vốn-tình hình đầu tư và
khả năng thanh toán; từ đó rút ra các đánh giá về cấu trúc và khả năng huy động
vốn đi kèm với những rủi ro có thể gặp phải về thanh khoản vốn và khả năng thanh
toán các khoản nợ phải trả.
Cơ sở dữ liệu cho nghiên cứu trong bài là các báo cáo tài chính có ý kiến
kiểm toán gần nhất (báo cáo soát xét) của tổng số 162 DNNN niêm yết; trong đó
DNNN niêm yết được xác định là các DN có vốn do Nhà nước sở hữu trên 50% và
hiện đang được niêm yết và giao dịch trên hai SGDCK trong nước. Phương pháp
nghiên cứu chủ yếu là tính toán, phân tích và so sánh các hệ số tài chính, bao gồm
các hệ số trung bình của ngành. Như vậy, việc phân loại DNNN theo ngành cũng là
một nhiệm vụ trong báo cáo này để tạo thuận lợi cho việc phân tích và so sánh.
Tuy nhiên, phạm vi có hạn của một bài viết không tránh khỏi những hạn chế
như sau: i) Dữ liệu báo cáo tài chính tin cậy gần nhất là báo cáo tài chính nửa năm
(bán niên) năm 2011 nên báo cáo chỉ phản ánh thực trạng tài chính tại thời điểm
giữa năm 2011 của các DNNN niêm yết; ii) Chưa có một chuẩn phân ngành được
4
công nhận rộng rãi trên TTCK Việt Nam nên phương pháp phân ngành trong báo
cáo được dựa trên chuẩn phân ngành ICB và có tham khảo cách phân loại của một
số công ty chứng khoán. Điều này không tránh khỏi những bất cập và có thể không
phù hợp theo quan điểm của một số đơn vị khác;
1
iii) Các hệ số trung bình được
tính toán dựa trên phương pháp bình quân giản đơn hoặc có gia quyền với quyền
số là tổng tài sản hoặc tổng vốn chủ sở hữu tuỳ theo mỗi một hệ số khác nhau
nhằm đảm bảo chúng phản ánh được tốt nhất ý nghĩa bình quân; và iv) Số chia
trong các hệ số là giá trị tại một thời điểm thay vì tính bình quân trong một khoảng
thời gian tương đương một kỳ kế toán.
II/ Tổng quan các hệ số cơ cấu vốn và khả năng thanh toán của các DNNN
niêm yết
1. Hệ số nợ
Hệ số nợ =
Nợ phải trả
Tổng tài sản
2. Hệ số nợ/vốn
Hệ số nợ/vốn =
Nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu
3. Hệ số đòn bẩy tài chính
Hệ số đòn bẩy tài chính =
Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu
Các hệ số trên đều có cùng tính chất, do vậy hệ số nợ có thể cung cấp góc
nhìn khái quát nhất cho nhóm hệ số này (các hệ số khác sẽ được phân tích cụ thể
trong phần sau). Theo đó, hệ số nợ trung bình của cả hệ thống gồm 162 DNNN
niêm yết hiện ở mức 0,85. Thống kê cho thấy có 121 trên tổng số 162 DNNN có hệ
1
Ví dụ, chúng tôi đã loại bỏ một ngành là Công nghệ trong bài do chỉ có 2 DNNN niêm yết,
trong đó có một DN dễ gây tranh cãi. Tuy nhiên, việc loại bỏ ngành này không ảnh hưởng nhiều
đến toàn bộ bài viết.
5
số nợ trên 0,5, chiếm tỷ lệ 74%. Điều đó phần nào nói lên rằng đa số các DNNN
hiện tại đang có cơ cấu tài chính nhiều rủi ro với tỷ trọng nợ cao trong tổng nguồn
vốn. Với nền kinh tế đang trong môi trường lạm phát và lãi suất cao như hiện nay
thì chi phí trả lãi của các DNNN này là một áp lực không hề nhỏ.
4. Hệ số tự tài trợ (hệ số vốn chủ sở hữu)
Hệ số vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Hệ số vốn chủ sở hữu trung bình của 162 DNNN niêm yết trên hai sàn HNX
và HSX bằng 0,15. Đây là mức rất thấp, cho thấy trong tổng số nguồn vốn hình
thành nên tài sản của doanh nghiệp chỉ có 15% là vốn do doanh nghiệp tự có có thể
huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại 85% là đi vay bên ngoài.
5. Hệ số đầu tư tài chính
Hệ số
đầu tư tài chính
=
ĐT tài chính ngắn hạn + ĐT tài chính dài hạn
Tổng tài sản
Hệ số đầu tư tài chính trung bình của 162 DNNN niêm yết trên hai sàn HNX
và HSX bằng 15%. Hệ số này cho thấy về cơ bản, lượng vốn nhóm DNNN đầu tư
ra bên ngoài không cao (chỉ chiếm 15% tổng tài sản), bao gồm đầu tư vào tài sản
tài chính ngắn hạn như cổ phiếu, trái phiếu ngắn hạn, đầu tư góp vốn vào công ty
liên doanh, liên kết…Như vậy, khả năng rủi ro tài chính phụ thuộc vào biến động
của thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp trên là không đáng ngại và nhìn
chung các doanh nghiệp NN niêm yết đều đáp ứng được so với tiêu chuẩn đề ra
trong các văn bản pháp quy về tỷ lệ đầu tư vốn ra ngoài ngành (tại thời điểm giữa
năm 2011).
6. Hệ số thanh toán hiện hành
Hệ số khả năng
thanh toán hiện hành
=
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
6
Hệ số thanh toán hiện hành trung bình của 162 DNNN niêm yết trên hai sàn
HNX và HSX bằng 1,84. Hệ số này cho biết khả năng thanh toán của doanh nghiệp
đối với toàn bộ các khoản nợ ngắn hạn mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh
toán trong vòng một năm hoặc một chu kì kinh doanh. Hệ số của nhóm DNNN
niêm yết bằng 1,84 cho thấy khả năng thanh toán của nhóm này chỉ ở mức độ vừa
phải mà không biểu thị sự vững chắc về mặt tín nhiệm doanh nghiệp, đặc biệt là
đối với các ngân hàng, nhà tài trợ vốn...của doanh nghiệp.
7. Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng
thanh toán nhanh
=
Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nhanh trung bình của 162 DNNN niêm yết trên
hai sở HNX và HSX bằng 1,34. Hệ số này đo lường khả năng thanh toán các khoản
nợ ngắn hạn của DNNN bằng việc chuyển đổi các tài sản ngắn hạn (không kể hàng
tồn kho) thành tiền. Hệ số của nhóm DNNN bằng 1,34 cho thấy khả năng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp này là tốt.
8. Hệ số khả năng thanh toán lãi vay
Hệ số khả năng
thanh toán lãi vay
=
EBIT
Chi phí lãi vay
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay trung bình của 162 DNNN niêm yết trên
hai sở HNX và HSX bằng 108,98. Hệ số này cho biết trong kỳ DNNN đã tạo ra lợi
nhuận trước thuế và lãi vay gấp bao nhiêu lần lãi phải trả về tiền vay. Hệ số này
càng cao thì rủi ro mất khả năng chi lãi trả tiền vay càng thấp và ngược lại. Hệ số
của nhóm DNNN bằng 108,98 cho thấy khả năng thanh toán lãi vay lớn. Nếu kết
hợp với hệ số nợ ở trên, mặc dù tỷ lệ vốn vay cao nhưng hệ số này cho thấy khả
năng chi trả lãi và vốn gốc của các DNNNNN niêm yết là an toàn.
7
III/ Cơ cấu vốn và khả năng thanh toán của các DNNN niêm yết theo ngành
1. Ngành công nghiệp
Hệ số nợ trung bình của ngành công nghiệp ở mức 0,74, tuy thấp hơn so với
trung bình các ngành nhưng tỷ lệ này vẫn ở mức cao so với các ngành còn lại,
đứng thứ 2 sau ngành tài chính. Trung bình 74% tài sản của các DNNN trong
ngành được tài trợ bằng nguồn vốn nợ, 26% tài sản còn lại được đầu tư từ nguồn
vốn chủ sở hữu. Thống kê cho thấy đa số, khoảng 70 trong 91, DNNN của ngành
có hệ số nợ trên mức 0,5; trong đó có 35 DNNN có hệ số nợ trên mức trung bình
ngành, cá biệt một số DNNN có hệ số nợ ở mức gần như tuyệt đối như SD8 (0,91);
DDM (0,94) hay TLT (0,95) . Có thể thấy rõ xu hướng sử dụng nhiều nợ trở nên
phổ biến trong các DNNN ngành công nghiệp. Việc này khiến cho các DNNN bị
phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn bên ngoài, cũng như áp lực trả nợ là khá cao.
Chính vì vậy, lãi suất tăng cao như trong thời gian vừa qua đã ảnh hưởng bất lợi
đến chi phí tài chính của các DNNN.
Hệ số nợ/vốn chủ sở hữu trung bình ngành ở mức 3,52; có 26 trên tổng số 91
DNNN có tỷ lệ này vượt mức trung bình ngành, trong đó có 10 DNNN vượt mức
trung bình toàn hệ thống các DNNNNN niêm yết. Một số DNNN có tỷ lệ nợ/vốn
chủ sở hữu vượt trên cả ngành ngân hàng (vốn là một ngành có tính chất sử dụng
vốn nợ là chủ yếu) như SD8 (11,66), PVA (13,27), DDM (17,16) và TLT (17,26).
Với những DNNN này, trong cơ cấu nguồn vốn, cứ một đồng vốn chủ sở hữu thì
có đến trên 10 đồng vốn nợ. Cho thấy nền tảng vốn chủ sở hữu rất yếu kém, khả
năng thanh toán nợ không được đảm bảo, rủi ro tài chính hiện ở mức quá cao.
Hệ số đòn bẩy tài chính trung bình ngành ở mức 4,74, chỉ thấp hơn so với
ngành tài chính. Một số DNNN có kết quả kinh doanh thua lỗ trong khi sử dụng
đòn bẩy tài chính ở mức quá cao như TLT hay NSN hiện tại đang phải đối mặt với
rủi ro tài chính rất lớn bởi lợi nhuận sinh ra không đủ để bù đắp chi phí trả lãi. Chi
phí trả lãi hàng năm của các DNNN này cũng có thể “lạm” vào vốn chủ sở hữu
8
trong điều kiện lãi suất thị trường đang căng thẳng như hiện nay. Một số DNNN
duy trì hệ số đòn bẩy ở mức vừa phải trong khi kết quả kinh doanh khả quan cho
thấy các DNNN đã có một cơ cấu vốn hiệu quả. Đối với các DNNN hoạt động
trong lĩnh vực xây dựng và bất động sản có đặc thù vay nợ nhiều cho các công
trình dự án, nợ phải trả khách hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ nhưng về bản
chất lại là hình thức vay vốn mà DNNN không phải trả lãi, việc trả nợ gốc được
hoàn thành khi dự án kết thúc, bởi vậy mặc dù tỷ lệ nợ cao nhưng các DNNN
không phải chịu quá nhiều áp lực chi trả lãi vay. Nhìn chung, phần lớn các DNNN
thuộc ngành công nghiệp có cơ cấu tài chính mạo hiểm khi tăng cường sử dụng
đòn bẩy tài chính trong hoạt động tạo lập vốn kinh doanh. Trong điều kiện kinh tế
tăng trưởng và lạm phát thấp, các doanh nghiệp sẽ có lợi thế trong việc sử dụng
đòn bẩy tài chính; tuy nhiên, trong thời gian gần đây, hệ số đòn bẩy cao của các
doanh nghiệp này luôn bộc lộ rủi ro thanh toán cao và khả năng lợi nhuận hạn chế.
Hệ số vốn chủ sở hữu trung bình của nhóm ngành công nghiệp là 0,26, cao
hơn so với trung bình nhóm các DNNNNN niêm yết (0,15), và đứng thứ 6 trong
tổng số 8 ngành thuộc nhóm DNNNNN niêm yết. Hệ số vốn chủ sở hữu thấp cho
thấy tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn thấp, các doanh nghiệp phải đi vay
nợ bên ngoài nhiều (có một vài doanh nghiệp tỷ lệ vốn chủ rất thấp, chưa tới 10%
như TLT, SD8, NSN hay DDM), dẫn tới việc không chủ động về vốn trong kinh
doanh, quá phụ thuộc vào nguồn vốn vay bên ngoài.
Hệ số đầu tư tài chính trung bình của nhóm ngành công nghiệp là 0,05, thấp
hơn so với trung bình nhóm các DNNNNN niêm yết (0,15), và đứng thứ 6 trong
tổng số 8 ngành thuộc nhóm DNNNNNNY. Mức 0,05 là mức rất thấp, cho thấy
phần đầu tư ra bên ngoài của nhóm ngành này là rất ít so với tổng tài sản. Chỉ có
một vài doanh nghiệp có mức đầu tư ra bên ngoài cao (như WCS, SDA, HPS,
TV4, TIE, HTV) là sẽ đối mặt với mức độ rủi ro cao trên thị trường tài chính. Còn
phần lớn các doanh nghiệp còn lại trong ngành đều có mức độ tập trung vốn, đầu
9
tư tài chính thấp và rất thấp, trong đó có 31,89% doanh nghiệp trong ngành không
có đầu tư tài chính, không phải chịu rủi ro của thị trường chứng khoán mang lại.
Hệ số thanh toán hiện hành trung bình của nhóm ngành công nghiệp là 1,49,
thấp hơn so với trung bình nhóm các DNNNNN niêm yết (1,84), và đứng thứ 6
trong tổng số 8 ngành thuộc nhóm DNNNNNNY. Có trên 24% các doanh nghiệp
ngành công nghiệp có hệ số thanh toán hiện hành trên mức trung bình ngành, còn
lại đa số (69 doanh nghiệp) ở mức thấp hơn mức trung bình ngành. Điều này cho
thấy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành
công nghiệp đang ở mức thấp. Cá biệt có một số doanh nghiệp trong ngành sản
xuất xi măng có hệ số này dưới 1, đồng nghĩa với việc tài sản ngắn hạn nhỏ hơn nợ
ngắn hạn, rủi ro vỡ nợ hoàn toàn có khả năng xảy ra bởi giá trị các tài sản có tính
thanh khoản tốt không đủ để đảm bảo cho các khoản nợ ngắn hạn.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh trung bình ngành công nghiệp đạt 1 lần,
không thấp hơn nhiều so với so với mức 1,34 trung bình nhóm DNNNNN cho thấy
khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của DNNN khối ngành này đáp ứng được những
yêu cầu thanh toán cần thiết. Cụ thể, có 67 DNNN nhóm ngành này – chiếm đa số
- có hệ số lớn hơn 1 và có 8 DNNN có hệ số lớn hơn 2. Điều này cho thấy hầu hết
các DNNN thuộc ngành công nghiệp đều có khả năng thanh toán nhanh và khả
năng vốn bị ứ đọng là thấp.
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay trung bình ngành công nghiệp đạt mức
7,17, thấp hơn 15,2 lần so với mức 108,98 trung bình nhóm DNNNNY. Trong đó,
có 3 DN có hệ số thanh toán lãi vay âm là PTM, SD3 và SDT, cho thấy tình trạng
tài chính đang ở mức nguy hiểm, rủi ro cao. 36 DN có hệ số thanh toán lãi vay lớn
hơn 2 (chiếm 40%), nhưng thấp hơn mức trung bình ngành, 12 DN có hệ số thanh
toán lãi vay lớn hơn trung bình ngành (chiếm 13,19%). Như vậy có thể thấy khả
năng thanh toán lãi vay của nhóm ngành công nghiệp so với các DNNN không
thực sự tốt, tình hình tài chính cần được xem xét thêm qua các hệ số tài chính khác.
10
2. Ngành Tài chính
Hoạt động kinh doanh của các DNNN bảo hiểm, chứng khoán và ngân hàng
của ngành tài chính có những đặc thù riêng, bởi vậy tỷ lệ nợ của những DNNN
thuộc ngành này thường ở mức rất cao so với các ngành còn lại. Hệ số nợ trung
bình của ngành tài chính là 0,9 cao hơn so với mức bình quân toàn hệ thống (0,85).
90% tài sản của các DNNN được tài trợ bởi nguồn vốn nợ, 10% tài sản còn lại
được đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu. Có 3 DNNN có hệ số nợ trên mức trung
bình của ngành là PVF, VCB và CTG. Đặc biệt với 2 DNNN trong lĩnh vực ngân
hàng là VCB và CTG thì tỷ lệ nợ chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối bởi nguồn vốn của
ngành ngân hàng chủ yếu đến từ hoạt động huy động vốn tiền gửi của khách hàng.
Hệ số nợ/vốn chủ sở hữu trung bình ngành ở mức 9,77 cao hơn nhiều so với
bình quân toàn hệ thống (6,21), đồng thời tỷ lệ này cũng cao hơn so với tất cả các
ngành còn lại. Trong cơ cấu vốn của các DNNN, cứ mỗi một đồng vốn chủ sở hữu
thì có đến xấp xỉ 10 đồng vốn nợ. điều này gây ra áp lực đáng kể cho các DNNN
khi phải thanh toán các khoản nợ đến hạn, cũng như lãi vay từng kỳ.
Hệ số đòn bẩy tài chính của ngành tài chính ở mức 10,79 cao hơn so với
bình quân toàn bộ các DNNN niêm yết và cao nhất trong tất cả các ngành. Theo
cáo cáo tài chính 6 tháng đầu năm, hầu hết các DNNN trong ngành có hệ số đòn
bẩy tài chính cao đã có kết quả kinh doanh tốt, bởi vậy đã phát huy được hiệu quả
của đòn bẩy tài chính trong việc nâng cao tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu. Một số
DNNN có kết quả kinh doanh thua lỗ như BVS, nhưng do duy trì đòn bẩy tài chính
ở mức thấp nên đã hạn chế được những tác động tiêu cực của hệ số này.
Nhìn chung, do đặc thù ngành nên hầu hết các DNNN thuộc ngành tài chính
đã duy trì một cơ cấu tài chính mạo hiểm với tỷ lệ nợ rất cao. Rủi ro thanh khoản
hoàn toàn có thể xảy ra nếu các DNNN không có biện pháp quản lý rủi ro cho tài
sản đầu tư của mình.
11
Hệ số vốn chủ sở hữu trung bình của nhóm ngành tài chính là 0,09, thấp hơn
so với trung bình nhóm các DNNN niêm yết và là mức thấp nhất trong tổng số 8
ngành thuộc nhóm nghiên cứu. Do đặc thù của ngành ngân hàng là huy động vốn
và cho vay vốn nên một số doanh nghiệp như CTG, PVF, VCB có hệ số chủ sở
hữu rất thấp (dưới 0,1), nguồn vốn chủ yếu đến từ vay nợ bên ngoài nên áp lực trả
nợ vay rất lớn, khả năng tự chủ trong tài chính rất kém. Đối với các doanh nghiệp
thuộc nhóm ngành này, tỷ lệ tài sản được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thấp nên hiệu
ứng đòn bẩy tài chính sẽ cao.
Hệ số đầu tư tài chính trung bình của nhóm ngành tài chính là 0,17, cao hơn
so với trung bình nhóm các DNNN niêm yết (0,15), và đứng thứ 3 trong tổng số 8
ngành. Nhóm ngành này có tỷ lệ đầu tư tài chính khá cao so với các nhóm ngành
còn lại. Có tới 12/16 doanh nghiệp trong nhóm ngành có mức đầu tư tài chính cao
hơn mức trung bình ngành (chiếm 75%), trong đó có những doanh nghiệp có tỷ lệ
đầu tư tài chính trên 50% tổng tài sản (BSI, BMI, AGR, BVS, BVH, BIC), đây là
những công ty và tổng công ty có kinh doanh chứng khoán, vì vậy việc đầu tư tài
chính mà chủ yếu là đầu tư tài chính ngắn hạn (mua cổ phiếu, trái phiếu) chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng tài sản.
Hệ số thanh toán hiện hành trung bình của nhóm ngành tài chính là 3,09, cao
hơn nhiều so với trung bình nhóm các DNNN niêm yết (1,84) và là mức cao nhất
trong tổng số 8 ngành. Điều này cho thấy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của các
doanh nghiệp trong ngành hiện đang rất tốt. Có được điều này là do đặc thù của
các doanh nghiệp trong ngành tài chính luôn nắm giữ các tài sản có tính thanh
khoản cao như tiền mặt và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Bởi vậy các khoản
nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp này luôn được đảm bảo chi trả trên nền tảng tài
sản ngắn hạn dồi dào.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh trung bình ngành tài chính đạt mức 2,69,
cao hơn so với so với mức 1,34 trung bình nhóm DNNN niêm yết. Chỉ có 2 DN có
12
hệ số thanh toán nhanh nhỏ hơn 1 là RCL và SJS là điều dễ hiểu bởi các DN trong
nhóm này luôn nắm giữ một lượng lớn tài sản có tính thanh khoản cao, khả năng
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn lớn.
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay trung bình ngành tài chính đạt mức 90,52,
thấp hơn so với mức 108,98 trung bình nhóm DNNN. Đặc biệt, có 1 DN có hệ số
thanh toán lãi vay nhỏ hơn 2, và 2 DN có hệ số thanh toán lãi vay cao hơn trung
bình của khối DNNN là BMI và RCL. Lý do bởi các DN này có hệ số EBIT cao
hơn nhiều lần so với chi phí lãi vay của DN.
3. Ngành Tiện ích tiêu dùng
Hệ số nợ trung bình của ngành tiện ích tiêu dùng là 0,52; thấp hơn so với
bình quân hệ thống các DNNNNN niêm yết. Trong tổng nguồn vốn hình thành tài
sản, có khoảng 52% được tài trợ từ các khoản công nợ và 48% tài sản còn lại được
đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ nợ này được coi là không quá cao nếu so
sánh với mức bình quân của toàn hệ thống các DNNN niêm yết. Thống kê cho thấy
trong ngành có 8 trên tổng số 14 DNNN có tỷ lệ nợ thấp hơn mức trung bình
ngành, cá biệt có một số DNNN có tỷ lệ vay nợ rất thấp như TIC (<0,01), TBC
(0,07) và NLC (0,09). Một số DNNN có tỷ lệ nợ cao hơn mức bình quân ngành có
thể kể đến như TDW (0,65), PPC (0,65) và HJS (0,72). Đặc thù của ngành là bán
hàng có thể thu tiền ngay, bởi vậy nhu cầu vay nợ của DNNN tăng lên cho thấy
DNNN có ý định mở rộng quy mô hoạt động. Theo báo cáo tài chính của các
DNNN này, vay nợ dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ phải trả, do đó về lâu
dài, DNNN sẽ phải chịu áp lực trả nợ khi đến hạn. Việc duy trì tỷ trọng nợ lớn
trong tổng nguồn vốn khiến cho các DNNN này bị phụ thuộc nhiều vào bên ngoài,
ảnh hưởng đến tính chủ động trong các quyết định kinh doanh.
Hệ số nợ/vốn chủ sở hữu trung bình của ngành ở mức 1,1. Với 1 đồng vốn
nợ sẽ được đảm bảo bởi 1 đồng vốn chủ sở hữu. Xét chung toàn ngành có thể nói
khả năng thanh toán nợ của các DNNN là tốt. Tuy nhiên với một số DNNN có hệ
13
số nợ/vốn chủ sở hữu cao trên mức trung bình ngành như PPC, HJS thì khả năng