Chuyên đề Nghiên cứu thống kê tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam trong giai đoạn 1991-2000

Sau 15 năm đổi mới, đất nước ta chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể trong hầu hết các lĩnh vực. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, hoạt động xuất nhập khẩu cũng thu được những kết quả rát khả quan. Để góp phần đưa đất nước ta đi lên, hoà nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới,tham gia tích cực vào sự phân công lao động hợp tác quốc tế, các hoạt động đầu tư, hợp tấc khoa học công nghệ với bên ngoài, dịch vụ trao đổi ngoại thương ngày càng phát triển. Trong đó hoạt động ngoại thương chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu, chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là động lực để phát triển kinh tế. Nghiên cứu và quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu là vấn đề hết sức khó khăn và cần thiết, bởi vì nó giúp cho nhà nước ta có thể đánh giá đúng thực trạng kinh tế đát nước, để đề ra các biện phấp, chính sách quản lý vĩ mô được chính xác và phù hợp. Nhận thức được điều đó, trong thời gian thực tập tại vụ thương mại và giá cả thuộc Tổng cục thống kê,em đã chọn đề tài: “NGHIÊN CỨU THỐNG KÊ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1991-2000” vì sự hiểu biết và thời gian thực tập có hạn, nên trong chuyên đề này em chỉ đi sâu vào phân tích xuất nhập khẩu hàng hoá quan biên giới, và nội dung chính của chuyên đề là dùa vào các phương pháp phân tích thống kê như: phân tổ, dãy số thời gian, chỉ số, hồi qui tương quan để nghiên cứu. Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về xuất nhập khẩu. Chương II: Hệ thống chỉ tiêu và các phương pháp phân tích thống kê xuất nhập khẩu. Chương III: Vận dụng phân tích thống kê tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam trong gian đoạn 1991-2000.

doc117 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu thống kê tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam trong giai đoạn 1991-2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời nói đầu Sau 15 năm đổi mới, đất nước ta chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể trong hầu hết các lĩnh vực. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, hoạt động xuất nhập khẩu cũng thu được những kết quả rát khả quan. Để góp phần đưa đất nước ta đi lên, hoà nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới,tham gia tích cực vào sự phân công lao động hợp tác quốc tế, các hoạt động đầu tư, hợp tấc khoa học công nghệ với bên ngoài, dịch vụ trao đổi ngoại thương ngày càng phát triển. Trong đó hoạt động ngoại thương chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu, chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là động lực để phát triển kinh tế. Nghiên cứu và quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu là vấn đề hết sức khó khăn và cần thiết, bởi vì nó giúp cho nhà nước ta có thể đánh giá đúng thực trạng kinh tế đát nước, để đề ra các biện phấp, chính sách quản lý vĩ mô được chính xác và phù hợp. Nhận thức được điều đó, trong thời gian thực tập tại vụ thương mại và giá cả thuộc Tổng cục thống kê,em đã chọn đề tài: “NGHIÊN CỨU THỐNG KÊ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1991-2000” vì sự hiểu biết và thời gian thực tập có hạn, nên trong chuyên đề này em chỉ đi sâu vào phân tích xuất nhập khẩu hàng hoá quan biên giới, và nội dung chính của chuyên đề là dùa vào các phương pháp phân tích thống kê như: phân tổ, dãy số thời gian, chỉ số, hồi qui tương quan để nghiên cứu. Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về xuất nhập khẩu. Chương II: Hệ thống chỉ tiêu và các phương pháp phân tích thống kê xuất nhập khẩu. Chương III: Vận dụng phân tích thống kê tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam trong gian đoạn 1991-2000. Chuyên đề này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy PGS,TS Phan Công Nghĩa và Chuyên viên chính Lê Minh Thủy, các thầy các cô trong khoa thống kê cùng với các chú các cô ở vụ thương mại giá cả Tổng cạc thống kê và sự nỗ lực của bản thân. Em xin chân thành cảm ơn !. CHƯƠNG I Lý luận chung về xuất nhập khẩu i. Kinh tế đối ngoại – ngoại thương – xuất nhập khẩu. 1. Kinh tế đối ngoại Hoạt động kinh tế là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển về kinh tế của các quốc gia đã dẫn đến sự hình thành nền kinh tế quốc gia thống nhất. Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, sự phân công lao động ngày càng mở rộng thì các quan hệ kinh tế không chỉ dừng lại trong phạm vi từng quốc gia, mà còn vươn ra phạm vi ngoài quốc tế. Ban đầu, các mối quan hệ giữa các quốc gia xuất hiện trên cơ sở có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên là chủ yếu. Các quốc gia cung cấp cho nhau những nguyên liệu sản phẩm đặc thù do điều kiện tự nhiên ( khoáng sản, khí hậu, đất đai…)mang lại. Sau đó, do qúa trình phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động làm nảy sinh sự khác biệt về trình độ công nghệ và kỹ thuật, chênh lệch về năng suất lao động, giá thành sản phẩm đã làm xuất hiện lợi thế mới của các quốc gia. Điều đó cho phép và đòi hỏi nền kinh tế của mỗi quốc gia phải phát huy triệt để lợi thế của mình, để sản xuất ra nhiều hàng hoá chất lượng cao mà giá thành lại rẻ, nhằm đổi lấy các hàng hoá mà quốc gia đó không sản xuất được hoặc sản xuất được với giá thành cao hơn và chất lượng kém hơn. Các mối quan hệ này ban đầu thể hiện trong lĩnh vực lưu thông sản phẩm, nhưng dần dần phát triển sang các mối quan hệ phân công và hợp tác lao động trong lĩnh vực thử nghiệm, đầu tư trao đổi công nghệ…và nhiều hoạt động khác. Trên phương diện kinh tế của mỗi quốc gia, mối quan hệ đó được gọi là quan hệ kinh tế đối ngoại. Kinh tế đối ngoại là một lĩnh vực phong phú và đa dạng của nền kinh tế quốc dân, thể hiện phần tham gia của mỗi quốc gia vào sự phân công lao động quốc tế và trao đổi mậu dịch quốc tế. Sự phát triển của hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi nước đã đưa kinh tế đối ngoại trở thành một lĩnh vực quan trọng, là sự tồn tại khách quan trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế đối ngoại không chỉ liên quan đến trao đổi hàng hoá mà còn liên quan đến mọi giai đoạn của qúa trình tái sản xuất trong nền kinh tế quốc dân. Nó gắn liền qúa trình phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế. Hoạt động ngoại thương là hoạt động trung tâm của kinh tế đối ngoại, kim ngạch ngoại thương là biểu hiện kết quả của các hoạt động kinh tế đối ngoại. Và do đó ta có thể nói rằng ngoại thương là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, của tái sản xuất xã hội. 2. Ngoại thương: là sù trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước khác nhau, thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới, tuân theo nguyên tắc ngang giá và hai bên cùng có lợi. Hoạt động xuất nhập khẩu là nội dung chính trong hoạt động ngoại thương, là một khâu của qúa trình tái sản xuất xã hội, là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân ;thực hiện chức năng lưu thông đối ngoại, góp phần đưa nền kinh tế đất nước hoà nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới để tham gia tích cực vào phân công hợp tác quốc tế. Thông qua xuất nhập khẩu hoạt động ngoại thương của các doanh nghiệp làm đa dạng hoá và làm tăng khối lượng sử dụng cho đất nước, đồng thời làm tăng tổng sản phẩm trong nước(GDP), góp phần tích luỹ để mở rộng sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân. Nh­ vậy hoạt động ngoại thương có tác động đến nền kinh tế đất nước cả về mặt giá trị và giá trị sử dụng, đồng thời không thể xem xét ngoại thương tách rời lĩnh vực sản xuất, tách rời nền kinh tế quốc dân. Xét về cội nguồn, ngoại thương xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các khu vực và các nước. Vì điều kiện sản xuất có thể rất khác nhau giữa các nước, nên điều kiện có lợi là mỗi nước nên chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể và xuất khẩu hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết từ nước ngoài. Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động tất yếu của mỗi quốc gia trong qúa trình phát triển của mình. Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà mỗi quốc gia có thể có thế mạnh về một hay một số lĩnh vực này nhưng lại không có thế mạnh về lĩnh vực khác. Để có thể khắc phục các điểm yếu, lợi dụng các cơ hội và hạn chế các thách thức tạo ra sự cân bằng các yếu tố trong qúa trình sản xuất tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi các hàng hoá và dịch vụ cho nhau: bán những gì mình có và mua những gì mình thiếu. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu không phải chỉ diễn ra giữa các quốc gia có những lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác mà ngay cả khi quốc gia đó không có những lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên…thì vẫn có thể thu được lợi Ých không nhỏ khi tham gia vào các hoạt động xuất nhập khẩu. Cơ sở và lợi Ých của hoạt động nhập khẩu( và nói rộng hơn là hoạt động ngoại thương ) được chứng minh rất rõ qua lý thuyết về lợi thế so sánh của nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh David Ricardo. Theo quy luật lợi thế so sánh, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất hầu hết các sản phẩm, các quốc gia đó có thể tham gia vào các hoạt động xuất nhập khẩu (thương mại quốc tế ) để tạo lợi Ých cho mình mà nếu bỏ qua thì quốc gia đó sẽ mất cơ hội phát triển. Nói một cách khác, là nếu quốc gia này tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế thì trong những điểm bất lợi nhất vẫn có thể tìm ra những điểm có lợi nhất để khai thác một cách có hiệu quả phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế. Khi tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu, quốc gia có hiệu quả thấp nhất trong việc sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá thì vẫn có thể thu được lợi Ých cho mình bằng việc chuyên môn hoá vào sản xuất các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chóng Ýt bất lợi nhất( những hàng hoá có lợi thế tương đối ) và trao đổi với các quốc gia khác đồng thời nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng là bất lợi nhất ( những hàng hoá không có lợi thế tương đối hoặc lợi thế so sánh ). Công thức mà nhà kinh tế chính trị học nổi tiếng Các-mác đã nêu ra: H-T-H’ là hai vế của một công thức được tách ra thành hai mặt hoạt động của nó. H-T ( hàng – tiền ) tức là bán hàng trở thành xuất khẩu; còn T-H’ (tiền –hàng) tức là mua hàng, trở thành nhập khẩu. Trong qúa trình xuất nhập khẩu các điều kiện tái sản xuất của từng nước được đối chiếu với điều kiện bên ngoài, từ đó phát sinh ra khả năng bổ sung của ngoại thương, tác động đến khối lượng, cơ cấu sản phẩm và GDP, đồng thời cũng tác động mạnh mẽ tới sự phát triển cân đối của nền kế toán quốc dân. II. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế Hoạt động xuất nhập khẩu là một lĩnh vực quan trọng và là nội dung cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại với bất kỳ một Quốc gia nào. Hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng phát triển và là nhân tố cơ bản thúc đẩy quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế. Mỗi Quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế thì cần hội đủ 4 điều kiện đó là: nguồn nhân lực; tài nguyên thiên nhiên; vốn và kỹ thuật công nghệ. Đối với một nền kinh tế nhỏ, công nghệ lạc hậu thì xuất khẩu chỉ trông chờ vào những sản phẩm có sẵn trong nước chủ yếu là sản phẩm do lao động thủ công tạo ra và những sản phẩm thô vừa khai thác chưa qua chế biến, hay là những sản phẩm truyền thống. Đó chính là những mặt hàng nông, lâm, hải sản, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng dệt may và những tài nguyên thiên nhiên khác. Việc tạo ra những hàng hoá này cũng là một trong những điều kiện cần thiết để có nguồn ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu dây chuyền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống của người lao động. Hay nói cách khác chính là tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.Vai trò của xuất khẩu Mỗi Quốc gia có một lợi thế so sánh riêng, do đó họ không thể sản xuất mà không đem đi bán được những sản phẩm lợi thế của mình. Chính vì lẽ đó mà xuất khẩu có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Thứ nhất, xuất khẩu là hoạt động tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến phục vụ công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu và chậm phát triển của đất nước. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đòi hỏi một khối lượng vốn lớn để có thể nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật tiên tiến cần thiết, chuyển giao công nghệ hiện đại bằng cách thức đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ. Mà các nguồn vốn này họ phải trả ở những kỳ sau, và như vậy nếu muốn vừa có thể nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật tiên tiến cần thiết để phát triển kinh tế lại vừa có thể trả nợ các nguồn vốn vay thì chỉ trong chờ vào hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu là hoạt động mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn nhất. Xuất khẩu quyết định quy mô và tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu và là nhân tố quyết định đến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ( hay cán cân thương mại). Chẳng hạn ở nước ta trong thời kỳ 1986 – 1990 nguồn từ xuất khẩu chiếm 50% tổng nguồn thu ngoại tệ. Năm 1994, nguồn thu từ xuất khẩu chỉ đảm bảo 60% nhu cầu vốn cho nhập khẩu; năm 1996 là 65%; năm 1997 là 67%. Đối với những nước kém phát triển thì một trong những thách thức lớn là vấn đề thiếu vốn, đối với các nước này trong quá trình phát triển thì nguồn vốn từ nước ngoài được coi là nguồn vốn chủ yếu để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế. Song mọi cơ hội đầu tư, vay nợ và viện trợ từ nước ngoài chỉ có thể thuận lợi khi chủ đầu tư hay người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu của Quốc gia đó. Xuất khẩu không những tạo ra nguồn vốn cho phát triển kinh tế mà nó còn đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đặc biệt nếu coi thị trường trong nước và thị trường Thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất vì điều kiện đó tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện qua các mặt sau: Xuất khẩu tạo điều kiện các ngành khai thác có cơ hội phát triển thuận lợi, đồng thời nó còn kéo theo một số vấn đề xã hội có liên quan khác nh­: tạo ra công ăn việc làm, tăng thu nhập và giảm tệ nạn xã hội.. Chẳng hạn, nếu phát triển ngành dệt xuất khẩu thì nó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các ngành nh­: tơ lụa, bông đay phát triển theo. Do đó thu hót được một số lượng lao động lớn vào làm trong các ngành đó. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và ổn định cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào và máy móc thiết bị kỹ thuật để phục vụ cho sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế – kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao khả năng – năng lực sản xuất trong nước. Điều kiện này thể hiện ở chỗ xuất khẩu là hoạt động quan trọng, chủ yếu để tạo ra nguồn vốn ngoại tệ phục vụ cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm Hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới và đưa đất nước tiến nhanh vào quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Thông qua con đường xuất khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường Thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi mỗi Quốc gia phải luôn luôn tổ chức lại, cải tiến sản xuất hình thành cơ cấu thích nghi với thị trường và đòi hỏi các Doanh nghiệp luôn luôn đổi mới hoàn thiện công việc và chương trình sản xuất kinh doanh cải tiến về mọi mặt. Xuất khẩu là nhân tố tích cực đến chính sách giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân đồng thời nó làm giảm những mặt tiêu cực của xã hội. Tác động của xuất khẩu đến đời sống xã hội được thể hiện trên nhiều mặt nh­: Thứ nhất, sản xuất hàng hoá xuất khẩu sẽ thu hót hàng vạn lao động làm việc với thu nhập cao và ổn định Thứ hai, xuất khẩu tạo ra nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu các hàng hoá, vật phẩm để phục vụ đời sống của nhân dân Thứ ba, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế giữa các nước với khu vực và Thế giới. Nó làm cho quan hệ ngoại giao ngày càng được mở rộng và phát triển với hầu hết các nước trên Thế giới đồng thời phát huy được lợi thế cạnh tranh của mỗi Quốc gia. Nh­ vậy xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có quan hệ qua lại phục thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại, cụ thể hoạt động xử lý có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và nó là tiền đề cho các quan hệ kinh tế đối ngoại đi kèm đồng thời nó làm cho các hoạt động kinh tế khác cũng phát triển theo. Chẳng hạn nh­ khi xuất khẩu hàng hoá phát triển mạnh thì nó cũng thúc đẩy và đòi hỏi các hoạt động khác nh­: đầu tư, tín dụng, vận tải Quốc tế … phát triển theo. 2.Vai trò của nhập khẩu Bên cạnh xuất khẩu, nhập khẩu cũng có một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế Quốc dân. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến quá trình sản xuất và đời sống xã hội trong nước. Nhập khẩu bổ sung những hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không có lợi hay không đáp ứng được nhu cầu Do đó, nhập khẩu kích thích sự đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của thị trường Thế giới về quy cách, chất lượng sản phẩm và tiêu chuẩn vệ sinh… Để tạo sự cạnh tranh giữa hàng hoá sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. Mặt khác, nhập khẩu đổi mới trang thiết bị, công nghệ trong nước qua đó người lao động được nâng cao tay nghề, học hỏi được những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến trên Thế giới. Bởi vậy việc đẩy mạnh nhập khẩu các mặt hàng công nghệ sẽ dẫn tới công nghệ trong nước được đổi mới và cải tiến đồng thời tạo ra khả năng cạnh tranh với khu vực và Thế giới. Mặt khác nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế Quốc dân, trong đó cân đối 3 yếu tố của sản xuất: công cụ lao động, đối tượng lao động, và lao động đóng vai trò quan trọng nhất. Qua đó nó tạo điều kiện cho đổi mới công nghệ, chuyên môn hoá sản xuất và ổn định cơ cấu kinh tế. 3. Ảnh hưởng của xuất nhập khẩu đến nền kinh tế a. Ảnh hưởng tích cực: Trong giai hiện nay Việt Nam là một nước đang phát triển thì hoạt động xuất nhập khẩu không chỉ là sứ mệnh mà còn là tất yếu để đưa nền kinh tế hội nhập với thị trường Quốc tế. Ngoài ra nó còn tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước thể hiện ở một số mặt nh­ sau: Thứ nhất, xuất nhập khẩu làm tăng nguồn thu ngoại tệ: xuất nhập khẩu hàng hoá, máy móc thiết bị và dịch vụ mang lại nguồn thu nhập lớn cho mỗi Quốc gia, góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán, tăng lượng dự trữ ngoại hốim tăng khả năng nhập máy móc thiết bị và nhiên liệu để phát triển công nghiệp. Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay - một nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp là chính thì hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế Quốc dân. Đối với một số nước trên Thế giới thì xuất nhập khẩu là nguồn tích luỹ cơ bản cho giai đoạn đầu của quá trinh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Thứ hai, xuất nhập khẩu là tăng thu nhập: trong nền kinh tế Quốc dân mỗi một ngành, một lĩnh vực đều tạo ra những nguồn thu nhập nhất định, cũng như vậy hoạt động xuất nhập khẩu cũng tạo ra thu nhập cho cho nền kinh tế Quốc dân từ đó tạo ra nguồn thu để nhập kỹ thuật mới có hàm lượng kỹ thuật cao, góp phần đẩy mạnh công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và đồng thời cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao mức sống dân cư. Nó vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của dân cư về các mặt hàng tiêu dùng vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, đồng thời tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động góp phần vào ổn định xã hội Thứ ba, xuất nhập khẩu tạo điều kiện để phát triển các ngành sản xuất: hoạt động xuất nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật đồng thời làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, từng bước đưa đất nước tiến nhanh trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Ngoài ra nó còn bổ sung kịp thời những mất cân đối của nền kinh tế làm cho nền kinh tế phát triển vững mạnh và ổn định.Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu mà nó thúc đẩy các ngành công nghiệp chế biến và sản xuất hàng hoá phát triển đồng thời nó đáp ứng được nhu cầu về kỹ thuật mới nhất, tiên tiến nhất nhằm sản xuất ra những hàng hoá mang tính kỹ thuật cao, chất lượng tốt, thời gian sản xuất ngắn, giảm giá thành sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và Quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay sự cạnh tranh là tất yếu khách quan của quá trình phát triển và là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Do đó đòi hỏi các Doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới trang thiết bị và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất để hạ thấp chi phí nhằm nâng cao lợi nhuận. Vấn đề đòi hỏi ở đây là Doanh nghiệp phải có đội ngò lao động có tay nghề cao, có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Đối với nước ta trong những năm gần đây, nhập khẩu còn có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu. Nhập khẩu tạo ra nguyên liệu cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu, cải tiến môi trường làm việc, đưa hàng hoá Việt Nam có mặt trên thị trường khu vực và Thế giới. Thứ tư, xuất nhập khẩu giả quyết công ăn việc làm và nâng cao tay nghề cho người lao động: trong những năm vừa qua lĩnh vực đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và xuất khẩu lao động sang các nước phát triển một cách mạnh mẽ và đã mở ra cho lao động Việt Nam cơ hội nghề nghiệp, điều kiện nâng cao tay nghề, nắm bắt được những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam tăng nhanh, sè khu công nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời số Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng lên một cách đáng kể. Đây là một lĩnh vực thu hót rất lớn thị trường lao động việc làm và là giải pháp giảm thất nghiệp hiệu quả nhất. Do vậy, xuất nhập khẩu không chỉ đóng vai trò làm chất xúc tác hỗ trợ cho phát triển mà còn trở thành yếu tố cơ bản, là động lực của phát triển, đông thời trực
Tài liệu liên quan