Thực tập cuối khoá là một khâu của quá trình đào tạo nhằm gắn liền học với hành, lý luận với thực tiễn, giúp sinh viên làm quen và tăng cường kỹ năng thực tế, năng lực chuyên môn về ngành nghề được đào tạo. Bản thân là một sinh viên khoa luật kinh tế để thấy được thực tiễn áp dụng luật pháp vào hoạt động ở doanh nghiệp thì quá trình thực tập là một khâu rất quan trọng. Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế thì hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang bước qua hai thập kỷ của công cuộc đổi mới chính sách và cơ chế kinh tế, trong đó hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế đã trở thành một yêu cầu tất yếu, một trong những nguồn lực để thưc hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Hội nhập kinh tế đang được coi là trào lưu mới thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển tiếp cận với thị trường tiềm năng về tiền của, về công nghệ của các nước tiến nhằm đảm bảo mục tiêu cùng đạt tới lợi ích tối đa cho mỗi quốc gia, phù hợp với quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không chỉ diễn ra ở Việt Nam, châu Á mà còn ở khắp các châu lục và bao gồm cả các nước kém phát triển. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được bắt đầu từ hội nhập kinh tế với các tổ chức khu vực đến tổ chức toàn cầu. Nước ta đã trở thành viên chính thức của ASEAN, của Diễn đàn Châu á – Thái Bình Dương (APEC) và bắt đầu gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mục tiêu của các tổ chức kinh tế là nhằm xây dựng một nền kinh tế đạt hiệu quả tối ưu về đầu tư, thương mại để tận dụng tối đa lợi thế so sánh của từng nước thành viên. Cơ hội có thể thu được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn. Song những thách thức trên con đường hội nhập sẽ không đơn giản.
Thuế luôn là một vấn đề quan trọng trong các hoạt động của WTO và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đàm phán của các quốc gia trong quá trình hội nhập cũng như khi đã trở thành viên chính thức của tổ chức này. Trước tình hình mới khi Việt Thuế luôn là một vấn đề quan trọng trong các hoạt động của WTO và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đàm phán của các quốc gia trong quá trình hội nhập cũng như khi đã trở thành viên chính thức của tổ chức này. Trước tình hình mới khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới đã đặt ra yêu cầu phải thực hiện cải cách chính sách thuế. Một trong những vấn đề rất quan tâm của chính phủ là cải cách thuế xuất nhập khẩu, vì thuế xuất nhập khẩu là loại thuế chịu tác động mạnh nhất trong quá trình hội nhập. Chính sách thuế quan tốt sẽ tạo điều kiện cho hoạt động thương mại và đầu tư phát triển, góp phần bảo hộ có hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng như giảm thiểu các tác động bất lợi đối với nền kinh tế trước sự biến động của thị trường thế giới.
Để nhìn nhận rõ hơn về chính sách thuế xuất nhập khẩu tại Việt Nam trong thời kì gia nhập WTO, tụi đó chọn Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera để thực tập và tìm hiểu vấn đề: Luật thuế Xuất - Nhập khẩu nhìn từ hoạt động thực tiễn của công ty.
Chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thuế xuất nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng thực hiện Luật thuế xuất nhập khẩu tại công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera.
Chương 3: Những biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của công ty nhìn từ góc độ thuế xuất nhập khẩu.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, ThS. Vũ Văn Ngọc đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực tập, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của cỏc cụ chỳ, các anh chị Phòng Kinh tế - Kế toán của công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera
92 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của công ty nhìn từ góc độ thuế xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của công ty nhìn từ góc độ thuế xuất nhập khẩu
LỜI MỞ ĐẦU
Thực tập cuối khoá là một khâu của quá trình đào tạo nhằm gắn liền học với hành, lý luận với thực tiễn, giúp sinh viên làm quen và tăng cường kỹ năng thực tế, năng lực chuyên môn về ngành nghề được đào tạo. Bản thân là một sinh viên khoa luật kinh tế để thấy được thực tiễn áp dụng luật pháp vào hoạt động ở doanh nghiệp thì quá trình thực tập là một khâu rất quan trọng. Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế thì hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang bước qua hai thập kỷ của công cuộc đổi mới chính sách và cơ chế kinh tế, trong đó hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế đã trở thành một yêu cầu tất yếu, một trong những nguồn lực để thưc hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Hội nhập kinh tế đang được coi là trào lưu mới thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển tiếp cận với thị trường tiềm năng về tiền của, về công nghệ của các nước tiến nhằm đảm bảo mục tiêu cùng đạt tới lợi ích tối đa cho mỗi quốc gia, phù hợp với quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không chỉ diễn ra ở Việt Nam, châu Á mà còn ở khắp các châu lục và bao gồm cả các nước kém phát triển. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được bắt đầu từ hội nhập kinh tế với các tổ chức khu vực đến tổ chức toàn cầu. Nước ta đã trở thành viên chính thức của ASEAN, của Diễn đàn Châu á – Thái Bình Dương (APEC) và bắt đầu gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mục tiêu của các tổ chức kinh tế là nhằm xây dựng một nền kinh tế đạt hiệu quả tối ưu về đầu tư, thương mại để tận dụng tối đa lợi thế so sánh của từng nước thành viên. Cơ hội có thể thu được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn. Song những thách thức trên con đường hội nhập sẽ không đơn giản.
Thuế luôn là một vấn đề quan trọng trong các hoạt động của WTO và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đàm phán của các quốc gia trong quá trình hội nhập cũng như khi đã trở thành viên chính thức của tổ chức này. Trước tình hình mới khi Việt Thuế luôn là một vấn đề quan trọng trong các hoạt động của WTO và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đàm phán của các quốc gia trong quá trình hội nhập cũng như khi đã trở thành viên chính thức của tổ chức này. Trước tình hình mới khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới đã đặt ra yêu cầu phải thực hiện cải cách chính sách thuế. Một trong những vấn đề rất quan tâm của chính phủ là cải cách thuế xuất nhập khẩu, vì thuế xuất nhập khẩu là loại thuế chịu tác động mạnh nhất trong quá trình hội nhập. Chính sách thuế quan tốt sẽ tạo điều kiện cho hoạt động thương mại và đầu tư phát triển, góp phần bảo hộ có hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng như giảm thiểu các tác động bất lợi đối với nền kinh tế trước sự biến động của thị trường thế giới.
Để nhìn nhận rõ hơn về chính sách thuế xuất nhập khẩu tại Việt Nam trong thời kì gia nhập WTO, tụi đó chọn Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera để thực tập và tìm hiểu vấn đề: Luật thuế Xuất - Nhập khẩu nhìn từ hoạt động thực tiễn của công ty.
Chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thuế xuất nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng thực hiện Luật thuế xuất nhập khẩu tại công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera.
Chương 3: Những biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của công ty nhìn từ góc độ thuế xuất nhập khẩu.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, ThS. Vũ Văn Ngọc đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực tập, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của cỏc cụ chỳ, các anh chị Phòng Kinh tế - Kế toán của công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera.
Do sự hạn chế về kiến thức và thời gian thực tập ngắn nên trong quá trình hoàn thành chuyên đề em không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy, cỏc cụ và của cỏc cụ chỳ, anh chị tại nơi thực tập để em có kết tốt hơn trong những bài viết sau.
Em mong rằng những giải pháp mà em đưa ra sẽ giúp công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu Viglacera hoạt động có hiệu quả cao hơn.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
I. THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU:
1. Khái niệm và bản chất của thuế xuất khẩu, nhập khẩu:
1.1.Khái niệm:
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và khu vực nước ta đã và đang từng bước hoà mình để phát triển kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Việc buôn bán, trao đổi hàng hoá giữa nước ta với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới ngày càng đa dạng phong phú. Mỗi quốc gia độc lập và có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới và cửa khẩu của quốc gia mình. Thuế đánh vào hàng hoá trong các trường hợp này được gọi chung là thuế quan. Trong xu thế quốc tế hoá ngày nay thì pháp luật của các quốc gia về thuế quan ngày càng có khuynh hướng hội nhập với khu vực và thế giới.
Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam thì thuế quan được gọi với tên chung là thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một loại thuế đánh vào các hàng hoá mậu dịch, phi mậu dịch được phép nhập khẩu, xuất khẩu qua biên giới và cửa khẩu, biên giới của Việt Nam.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu được Nhà nước ban hành vào năm 1951. Vào thời điểm này thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một công cụ chủ yếu giúp Nhà nước ta thực hiện chức năng quản lý việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa vùng kinh tế tự do và vùng bị địch tạm chiếm, bảo vệ và phát triển vùng kinh tế tự do, thúc đẩy việc giao lưu các loại hàng hoá là nhu yếu phẩm cần thiết cho nhân dân và phục vụ cho quân đội. Phương châm đấu tranh kinh tế với địch mà chúng ta thực hiện vào giai đoạn đó là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các hàng hoá cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và phục vụ đời sống của nhân dân trong nước. Xuất phát từ chính sách kinh tế như vậy mà Nhà nước miễn thuế xuất khẩu cho tất cả các loại hàng hoá của vùng kinh tế tự do, đồng thời hạn chế nhập khẩu các hàng hoá từ vùng bị địch tạm chiếm. Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ 30% trở lên.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch 1987 là luật thuế đầu tiên được Quốc hội khoá VIII thông qua thay thế cho chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương có từ trước đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Đây là thứ thuế đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam được ban hành bằng hình thức luật khá hoàn chỉnh nhằm tăng cường quản lý các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, góp phần tích cực vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của Nhà nước, hình thành cơ cấu xuất nhập khẩu hợp lý, góp phần bảo vệ và phát triển sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước, góp phần tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước(NSNN). Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/2/1988.
Trong những năm tiếp theo do sự thay đổi của chính sách kinh tế và hoàn cảnh kinh tế- xã hội của đất nước mà Nhà nước ta đã ban hành Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu có sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với nền kinh tế của từng giai đoạn vào các năm 1991, 1993, 1998, 2005.
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành có phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá mậu dịch 1987. Theo đó Nhà nước đánh thuế xuất khẩu, nhập khẩu không phân biệt tính chất hàng là xuất khẩu, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch. Đối tượng điều chỉnh của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là quan hệ thu nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu giữa Nhà nước với các tổ chức, cá nhân có hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu và biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ khu vực phi thuế quan vào khu vực thuế quan như hàng hoá từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước và hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào các khu chế xuất.
Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì thuế xuất khẩu, nhập khẩu đối với hàng hoá mậu dịch là thuế gián thu. Còn đối với các loại hàng hoỏ khỏc thỡ tuỳ theo từng trường hợp mà thuế xuất khẩu, nhập khẩu có tính chất gián thu hoặc mang tính chất trực thu.
1.1.1. Thuế xuất khẩu:
Thuế xuất khẩu:
Thuế xuất khẩu là một loại thuế mà một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đánh vào những mặt hàng xuất ra khỏi cửa khẩu, biên giới của quốc gia hoặc từ khu vực chế xuất ra thị trường bên ngoài dựa trên Biểu thuế xuất khẩu. Theo nguyên tắc thì thuế xuất khẩu phải được nộp khi đăng ký tờ khai hải quan.
Mục đích:
Thuế xuất khẩu cũng như tất cả các loại thuế khác đều đựơc sử dụng vào mục đích tăng thu cho Ngân sách nhà nước. Ngoài ra, nó cũn mang những mục đích sau:
- Bình ổn giá cả thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng hoá trong nước.
- Khuyến khích sản xuất trong nước trên những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế bằng chính sách ưu đãi xuất khẩu.
Thuế suất:
Thuế suất thuế xuất khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu thuế thuế xuất khẩu.
Cỏc nhóm mặt hàng không được ghi cụ thể tên và mã số trong Biểu thuế xuất khẩu là những nhóm mặt hàng có thuế suất thuế xuất khẩu 0% (không phần trăm). Cỏc nhúm mặt hàng được ghi rõ tên trong Biểu thuế xuất khẩu là những nhóm mặt hàng chịu thuế xuất khẩu.
Biểu thuế xuất khẩu:
Riêng Biểu thuế xuất khẩu không xây dựng danh mục đầy đủ theo Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam mà chỉ chi tiết những nhóm mặt hàng chịu thuế xuất khẩu. Biểu thuế xuất khẩu được chia thành 4 cột:
- Cột thứ 1, là cột số thứ tự của nhóm mặt hàng chịu thuế xuất khẩu.
- Cột thứ 2, là cột mô tả hàng hoá.
- Cột thứ 3, là nhóm, mã số có chứa nhóm mặt hàng chịu thuế xuất khẩu
- Cột thứ 4, là cột thuế suất thuế xuất khẩ
1.1.2.Thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu. Khi phương tiện vận tải (tàu thủy, máy bay, phương tiện vận tải đường bộ hay đường sắt) đến cửa khẩu biên giới (cảng hàng không quốc tế, cảng sông quốc tế hay cảng biển quốc tế, cửa khẩu biên giới bộ) thỡ cỏc công chức hải quan sẽ tiến hành kiểm tra hàng hóa so với khai báo trong tờ khai hải quan đồng thời tính số thuế nhập khẩu phải thu theo các công thức tính thuế nhập khẩu đã quy định trước. Về mặt nguyên tắc, thuế nhập khẩu phải được nộp trước khi thông quan để nhà nhập khẩu có thể đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong nội địa, trừ khi cú cỏc chính sách ân hạn thuế hay có bảo lãnh nộp thuế, nờn đõy có thể coi là một trong những loại thuế dễ thu nhất, và chi phí để thu thuế nhập khẩu là khá nhỏ.
Trong thời cổ đại và trung cổ, thuế nhập khẩu còn được các chính quyền địa phương thu, nhưng hiện nay điều này là rất hiếm và thông thường nó được nhà nước giao cho một tổ chức nhà nước chuyên trách về thuế xuất-nhập khẩu là hải quan thực hiện công việc kiểm tra, tính và thu thuế. Tại một số quốc gia, cơ quan chức năng khi tính thuế nhập khẩu cũng tính luôn cả thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với mặt hàng nhập khẩu đó, mặc dù thuế giá trị gia tăng về nguyên lý chỉ được đánh khi hàng hóa tham gia lưu thông. Một số quốc gia có chính sách hoàn thuế nhập khẩu cùng thuế VAT khi các mặt hàng nhập khẩu được sử dụng vào sản xuất hàng xuất khẩu.
Trong thời đại ngày nay, các chính sách về thương mại, thuế và thuế quan (trong đó có thuế nhập khẩu) thường được xếp cùng nhau do ảnh hưởng chung của chúng đối với các chính sách công nghiệp, chính sách nông nghiệp và chính sách đầu tư. Các khối thương mại là nhúm cỏc quốc gia liên minh thỏa thuận giảm thiểu hay loại trừ thuế quan đối với thương mại trong khối, cũng như khả năng áp đặt thuế quan có hiệu quả lên hàng nhập khẩu từ ngoài khối. Liên minh hải quan của khối thường có biểu thuế quan ngoài chung, và theo các quy định đã thỏa thuận thỡ cỏc quốc gia thành viên chia sẻ các khoản thu nhập từ thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu vào trong khối.
Buôn lậu trong lĩnh vực nhập khẩu là hành vi mà một số tổ chức, cá nhân thực hiện trái luật để trốn thuế nhập khẩu.
Mục đích:
Thuế nhập khẩu theo truyền thống được đưa ra chủ yếu để tăng thu cho ngân sách, tuy nhiên nó cũng có thể để:
- Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại.
- Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng phá giá lên tới mức giá chung của thị trường.
- Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến tranh thương mại.
- Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống như các chính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách nông nghiệp chung của họ.
- Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.
- Không khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng có thể bị coi là xa xỉ phẩm hay đi ngược lại các truyền thống văn hóa dân tộc v.v
Thuế suất:
Theo mức thuế suất đối với cùng một mặt hàng, có thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường:
- Thuế suất ưu đãi: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện quy chế tối huệ quốc (MFN) trong quan hệ thương mại với quốc gia đó. Thuế suất ưu đãi thông thường được quy định cụ thể cho từng mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi do cơ quan chức năng ban hành.
- Thuế suất ưu đãi đặc biệt: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với quốc gia đó theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác.
- Thuế suất thông thường: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện quy chế tối huệ quốc cũng như không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với quốc gia đó. Thuế suất thông thường luôn luôn cao hơn so với thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt của cùng mặt hàng đó.
1.2. Tính chất của thuế xuất khẩu, nhập khẩu:
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ rất quan trọng để Nhà nứơc thực hiện chính sách kinh tế của mình, quản lý các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Căn cứ vào đặc điểm kinh tế xã hội của từng giai đoạn lịch sử mà mỗi quốc gia sử dụng thuế quan vào các mục tiêu khác nhau.Tuy nhiên, ở một góc độ chung nhất có thể thấy rằng tính chất của thuế xuất khẩu, nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là nguồn thu quan trọng cho Ngân sách nhà nước. Mục tiêu chung của các quốc gia là sử dụng thuế xuất khẩu, nhập khẩu để tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Mặt khác, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một loại thuế dễ thu, ít bị phản đối tiêu cực từ phớa cỏc đồi tượng nộp thuế.
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu cấu thành trong giá cả hàng hoá, làm tăng giá hàng hoá, do đó có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu và định hướng tiêu dùng bởi vì lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu phụ thuộc vào sức tiêu thụ hàng hoá mà yếu tố này lại phụ thuộc vào giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá cao hay thấp sẽ quyết định việc giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hoỏ đú trờn thị trường. Thông qua thuế xuất khẩu, nhập khẩu Nhà nước điều tiết hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá. Hơn thế nữa, thuế xuất khẩu, nhập khẩu sẽ hạn chế việc tiêu dùng hàng hoá xa xỉ hoặc các mặt hàng không được khuyến khích tiêu dùng như thuốc lá, rượu bia…
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu có tác dụng bảo hộ nền sản xuất trong nứơc, việc đánh thuế cao vào hàng hoá nhập khẩu sẽ giỳp cỏc nhà sản xuất trong nước có thể cành tranh với các hàng hoá nhập khẩu. Đặc biệt thuế xuất khẩu, nhập khẩu cho phép các nhà sản xuất kinh doanh các ngành còn non trẻ có thời gian trưởng thành và thu được lợi nhuận để làm tiền đề cho doanh nghiệp cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu.
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu có tác dụng giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp do việc đánh thuế xuất khẩu, nhập khẩu cao sẽ làm cho hàng hoá nhập khẩu giảm, để thay thế lượng hàng hoá nhập khẩu bị giảm đó Nhà nước ta phải mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất do đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động từ đó góp phấn giải quyết nạn thất nghiệp trong nứơc.
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ để Nhà nước thực hiện chính sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại đối với các nước. Điều này được thể hiện thông qua các mức thuế suất trong biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu của nước ta hiện nay: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt.
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các quốc gia khác trong khu vực và thế giới thông qua các cam kết về thuế quan. Như các cam kết của Việt Nam về thuế quan trong WTO, AFTA…
- Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong cả nước.
1.3. Mã số thuế:
Danh mục mặt hàng chịu thuế của biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu về cơ bản được xây dựng trên cơ sở bảng danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của hội đồng hợp tác hải quan thế giới, đồng thời có biến đổi một số phần cụ thể cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam và chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước ta:
- Mỗi nhóm hàng hoá trong chương được xác định bằng 4 chữ số.
- Mỗi phân nhóm hàng trong nhóm được xác định
- Một số nhóm hàng không được phân chia thành nhiều phân nhóm hàng khác nhau thì được thêm hai chữ số 00 vào sau cùng.
- Một số phân nhóm hàng trong biểu thuế được phân chia tiếp thành nhiều mặt hàng khác nhau. Mỗi mặt hàng trong phân nhóm được xác định bằng 8 chữ số.
- Tuy nhiên cũng có một số trường hợp các phân nhóm hàng được phân chia thành các mặt hàng khác nhau nhưng không xác định mã số cho chúng.
Theo cách sắp xếp danh mục và mã số của nhóm, phân nhóm hàng, mặt hàng nói trên thì biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành được phân thành 3 cột trong đó:
+ Cột thứ nhất là cột mã thuế nhóm hàng, phân nhóm hàng, mặt hàng.
+ Cột thư hai là cột mô tả tờn nhúm hàng, phân nhóm hàng, mặt hàng.
+ Cột thứ ba là cột quy định mức thuế suất xuất khẩu, nhập khẩu cho nhóm hàng hoặc cho phân nhóm hàng hoặc cho mặt hàng. Vì vậy, khi tra cứu mã số và mức thuế suất xuất khẩu, nhập khẩu của một mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu cụ thể nào đó cần xem nhóm hàng và mặt hàng này nằm trong đó được chia chi tiết đến mức độ nào: nhóm, phân nhóm cấp 1, phân nhóm cấp 2 hay mặt hàng để xác định chính xác mức thuế suất của mặt hàng này trong biểu thuế.
1.4. Tác động của thuế xuất khẩu, nhập khẩu:
Trong quá trình phát triển của đất nước Nhà nước ta đó cú những bước cải tiến hệ thống chính sách thuế nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống chớch sỏch đáp ứng yêu cầu chuyển sang nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế bình đẳng cùng tồn tại trong quá trình sản xuất kinh doanh và trong nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
Hệ thống chính sách thuế hiện hành bao gồm: Luật thuế GTGT, Luật thuế TNDN, Luật thuế TTĐB, Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật quản lý thuế, Pháp lệnh thuế nhà đất, Pháp lệnh thuế tài nguyên, các hình thức phí, lệ phí. Sự điều chỉnh chính sách thuế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp độ hoạt động và phát triển của nền sản xuất trong nước. Do vậy, để hội nhập đạt hiệu quả cao chúng ta phải xây dựng một hệ thống chính sách thuế hợp lý, linh động nhưng lại bảo đảm tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật. Trong đó, phải đặc biệt đến việc hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu vì thuế xuất nhập khẩu có những vai trò sau:
a. Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lý các hoạt động mua bán giữa nước ta với các nước khác. Thông qua việc ban hành và thực thi chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu chúng ta có thể nắm đủ tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá tạo điều kiện cho Nhà nước đề ra chính sách ngoại thương đúng đắn, cân đối cung - cầu hàng hoá xuất nhập khẩu và cân bằng cán cân thanh toán.
b. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu