Chuyên đề Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giầy của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tếtheo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá thiên về xuất khẩu. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, cùng với việc đẩy mạnh tiến trình vận động của nền kinh tế thế giới là toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại. Chúng ta cần phải tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu, dần thay thế nhập khẩu. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay. Để thực hiện được chiến lược phát triển này chúng ta phải phát triển nhanh mạnh, vững chắc các ngành công nghiệp, trong đó có công nghiệp da, có khả năng cạnh tranh cao, đặc biệt là phát triển các ngành công nghiệp sử dụng ít vốn, thu hút nhiều lao động, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài thu hút cấc nguồn lực bên ngoài, tích cực chủđộng, mở rộng thâm nhập vào thị trường quốc tế . Ngành công nghiệp da giày của nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển có vị trí quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tếđất nước, góp phần tạo ra công ăn việc làm, tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập ngoại tệ qua đẩy mạnh xuất khẩu. Đối với nước ta thì ngành công nghiệp da giày cũng có tầm quan trọng đặc biệt. Đểđược hiểu rõ hơn về quá trình tham gia xuất khẩu màđặc biệt là xuất khẩu da để làm da giày của Việt Nam nên em đã chọn để tài: “Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giày của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.” làm đề tài nghiên cứu của mình. Do còn hạn chế về trình độ lý luận cũng như kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy cô góp ý và bổ sung để bài viết của em được tốt hơn trong những lần sau.

doc14 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giầy của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜIMỞĐẦU Với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tếtheo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá thiên về xuất khẩu. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, cùng với việc đẩy mạnh tiến trình vận động của nền kinh tế thế giới là toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại. Chúng ta cần phải tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu, dần thay thế nhập khẩu. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay. Để thực hiện được chiến lược phát triển này chúng ta phải phát triển nhanh mạnh, vững chắc các ngành công nghiệp, trong đó có công nghiệp da, có khả năng cạnh tranh cao, đặc biệt là phát triển các ngành công nghiệp sử dụng ít vốn, thu hút nhiều lao động, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài thu hút cấc nguồn lực bên ngoài, tích cực chủđộng, mở rộng thâm nhập vào thị trường quốc tế . Ngành công nghiệp da giày của nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển có vị trí quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tếđất nước, góp phần tạo ra công ăn việc làm, tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập ngoại tệ qua đẩy mạnh xuất khẩu. Đối với nước ta thì ngành công nghiệp da giày cũng có tầm quan trọng đặc biệt. Đểđược hiểu rõ hơn về quá trình tham gia xuất khẩu màđặc biệt là xuất khẩu da để làm da giày của Việt Nam nên em đã chọn để tài: “Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu mặt hàng da giày của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.” làm đề tài nghiên cứu của mình. Do còn hạn chế về trình độ lý luận cũng như kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy cô góp ý và bổ sung để bài viết của em được tốt hơn trong những lần sau. Chương I:Khái niệm, vai trò và hiệu quả xuất khẩu hàng hoá Khái niệm xuất khẩu. Xuất khẩu là việc bán hàng ra nước ngoài nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh vàđời sống. Song mua bán ởđây có những nét riêng, phức tạp hơn mua bán trong nước như giao dịch với những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn và khó kiểm soát, mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ, hàng hoá phải chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau, phải tuân theo các tập quán, thông lệ quốc tế cũng như các địa phương. Hoạt động xuất khẩu hiện nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế, từ vật phẩm tiêu dùng đến tư liệu sản xuất, từ các chi tiết linh kiện nhỏ nhất đến các loại máy móc khổng lồ, không chỉ có hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với tỷ trọng ngày càng lớn. Như vậy, thông qua hoạt động xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách cho nhà nước, kích thích đổi mới công nghệ, cải tiến cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Hình thức cơ bản của xuất khẩu hàng hoá chỉ là hình thức trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến nay nóđã phát triển rất mạnh vàđược biểu hiện dưới nhiều hình thức. Vai trò xuất khẩu. Đối với nền kinh tế quốc dân. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoáđất nước. Nguồn gốc quan trọng nhất để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá là xuất khẩu. Nhờ hoạt động xuất khẩu có thể tranh thủ tối đa nguồn vốn kỹ thuật công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy hàng hoá trong nước phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động, từng bước đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Có xuất khẩu mới phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển, xây dựng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, cải thiện đời sống của nhân dân. Giữa sản xuất và xuất khẩu có mối liên hệ chặt chẽ. Quy mô, tốc độ phát triển của xuất khẩu do trình độ phát triển của sản xuất quy định. Việc xuất khẩu những sản phẩm do trong nước sản xuất ra cóảnh hưởng lớn đến sản xuất, đến công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân, tăng thu nhập quốc dân. Cóđẩy mạnh mới tăng thu ngoại tệ và tích luỹ vốn. Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoáđất nước và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có một số vốn lớn. Xuất khẩu đóng vai trò khuyến khích và mở rộng sản xuất phát triển, do đó góp phần đáng kể vào việc tích luỹ vốn phục vụ công nghiệp hoá. Xuất khẩu góp phần phục vụ tốt đường lối mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài của Đảng và Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp. Ngày nay, xuất khẩu là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp, việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài đem lại cho doanh nghiệp các lợi ích sau: Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong và ngoài nước trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới. Qua đó cóđiều kiện tiếp thu phát triển các kỹ- nghệ tiên tiến. Chương II: Thực trạng xuất khẩu khẩu da giày Việt Nam 1. Tình hình xuất khẩu da giày trước kia và những năm gần đây. Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ tiếp nhận sự chuyển dịch sản xuất các sản phẩm da giày để xuất khẩu từ các nước NIC trong khu vực như: Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông nhằm khai thác các lợi thế mà Việt Nam cóđược trong việc sản xuất và xuất khẩu giày dép. Đó là: Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, lành nghề, chăm chỉ, cần cù tiếp thu nhanh, tiền công lao động thấp. Việt Nam chưa bị các nước nhập khẩu da giày khống chế bằng hạn ngạch vàđược hưởng chếđộưu đãi thuế quan (GSP) Nếu đáp ứng đủ tiêu chuẩn xuất xứ. Tận dụng lợi thếđóđồng thời khai thác tiềm năng của ngành, chỉ trong khoảng thời gian từ 1993 đến nay: sản lượng “Giày Da” Việt Nam đứng thứ 8 Thế Giới. Cả nước có 234 doanh nghiệp sản xuất da giày các loại, trong đó có 77 doanh nghiệp Nhà nước, 80 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 77 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng năng lực sản xuất da giày các loại hàng năm đạt khoảng 420 triệu đôi trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 47.5%, doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 27.5%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng 25%. Sản lượng da giày các loại tăng nhanh qua các năm. Cùng với sự tăng lên của sản lượng là sự gia tăng nhanh chóng mức tiêu thụ giày dép, trong đó xuất khẩu tăng nhanh nhất. Nếu từ năm 1991 trở về trước hầu như chỉ có tiêu thụ nội địa, không có xuất khẩu thìđến năm 1992 đã xuất khẩu được 5triệu USD vàđã tăng liên tục với tốc độ cao. Trong những năm gần đây da giày Việt Nam đã có mặt trên 129 quốc gia. Năm 2001 so với năm 1992 – tức là sau 9 năm – kinh ngạch xuất khẩu da giày đã gấp 312 lần, bình quân một năm tăng tới 89.3%. Đó là tỗc độ tăng rất cao – cao nhất so với các mặt hàng chủ lực khác trong thời gian tương ứng. Tám tháng đầu năm 2002 kim ngạch xuất khẩu da giày đãđạt 1256 triệu USD. Đứng thứ 3 sau mặt hàng dầu thô (1940 Triệu USD), dệt may (1593 triệu USD) so với tám tháng đầu năm 2001, là mức tăng cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác. Kim ngạch xuất khẩu da giày Việt Nam từ chỗ không có gì sau 10 năm phát triển đã vượt lên đứng thứ 4 Thế Giới sau Trung Quốc, Hồng Kông, Italia. Bộ công nghiệp cho biết, nhờ các doanh nghiệp chủđộng xúc tiến thương mại, chuyển đổi cơ cấu sản phẩm kim nghạch xuất khẩu da giày trong 3 tháng đầu năm 2006 vẫn đạt khoảng 816 triệu USD, tăng 23,1% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy da giày là một trong những ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân về nhiều mặt, như giải quyết công ăn việc làm cho lao động xã hội, lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu với kim ngạch khá cao và tăng liên tục. 2. Những khó khăn thách thức của da giày Việt Nam. Bên cạnh những kết quảđãđạt được, ngành da giày nước ta năm vừa qua có biết bao khó khăn thử thách. Các doanh nghiệp da giày đứng trước yêu cầu đòi hỏi của thị trường. Thứ nhất: Khâu nguyên vật liệu để sản xuất, cả nước hiện chỉ có 2 nhà máy thuộc da nhưng cũng không đủ da để chế biến, phải nhập da muối từ nước ngoài: phần nguyên liệu trong nước chỉ chiếm khoảng 20% nhu cầu sản xuất do hạn hán, lũ lụt ảnh hưởng đến chăn nuôi gia súc… Thứ 2: Phương thức hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất da giày xuất khẩu là gia công, nên kim ngạch xuất khẩu thì lớn, nhưng kim ngạch thực thụ thìít. Thứ 3: Vẫn còn tồn tại 20% doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp quy mô nhỏ, kỹ thuật sản xuất và công nghệ kém, năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh yếu. Trình độ cán bộ quản lý, trình độ tay nghề còn thấp, nhất là kỹ thuật thiết kế mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng ỡ từng thị trường còn yếu. Mà ngày nay thị trường đòi hỏi ngày càng cao về sản phẩm như các tiêu chuẩn nhãn, mác và sản phẩm không có chất độc hại… Thứ 4: Khả năng tiếp thị và trình độ marketing của các doanh nghiệp trên thị trường còn yếu. Cụ thểởđây là khi thực hiện một dựán thì phía các doanh nghiệp Việt Nam không muốn tham gia tích cực vào phần bán hàng va làm nhiệm vụ marketing quốc tế vì thế Việt Nam sẽ mất dần đi tính chủđộng trên thị trường quốc tế, cũng như lắm được nhu cầu thị yếu của khách hàng, giá cả và các thông tin khác. Thứ 5: Ngày 22/3/2006, xuát khẩu da giày Việt Nam gặp khó khăn do ủy ban Châu Âu(EC) đã chính thức phê chuẩn đề xuất áp dụng thuế chống bán phá giáđối với mặt hàng da giày nhập khẩu từ Việt Nam, với mức thuế bán phá giá sơ bộ chia thành 4 giai đoạn, giai đoạn 1 từ ngày 7/4 đến ngày 1/6/2006 với mức thuế là 4.2%, giai đoạn 2 từ ngày 2/7 đến ngày 13/7/2006 với mức thuế là 8.4%, giai đoạn 3 từ ngày 14/7 đến ngày 14/9/2006 với mức thuế là 12.6%, giai đoạn 4 từ ngày 15/9 đến ngày 6/10/2006 với mức thuế là 16.8%. Do đó chắc chắn các doanh nghiệp Việt Nam ngoài việc bịđánh thuế, bịép giá từ các nhà nhập khẩu, còn phải gánh chịu hậu quả từ nguy cơ giảm thu nhập, việc làm của người lao động. Đó mới chính là những khó khăn dây chuyền mà các doanh nghiệp phải gánh chịu. Chương III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm mở rộng xuất khẩu và nâng cao hiệu quả hàng da giày Việt Nam. 1. Mục tiêu chiến lược phát triển của ngành da giày Việt Nam Trong những năm tới cần phải tiếp tục phát triển ngành da giày hướng ra xuất khẩu để khai thác lợi thế và tiềm năng của Việt Nam. Chuyển dần từ gia công xuất khẩu là chủ yếu sang xây dựng một ngành công nghiệp sản xuất da giày cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Đó là hai quan điểm cơ bản để xác định mục tiêu phát triển cũng như các biện pháp để thực hiện. Để có căn cứ xác định mục tiêu phát triển, chúng ta đánh giá tổng quan về tình hình sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ và nhập khẩu da giày lớn trên thế giới. Theo đánh giá và nhận xét của các chuyên gia thế giới về ngành giày dép, trong những năm tới các nước Châu Á và Viễn Đông sẽ chiếm tới 75% sản lượng da giày trên toàn thế giới ( khoảng trên 10 tỷđôi). Trong đó Việt Nam cũng là một trong những nước có tiềm năng để phát triển ngành hàng này. Hiện nay, EU là thị trường nhập khẩu chủ yếu các sản phẩm da giày của Việt Nam, theo số liệu từ Tổng cục Hải quan Việt Nam kim ngạch xuất khẩu của nghành chiếm xấp xỉ 80%, với trị giá trên 2tỷ USD mỗi năm. Chúng ta cần củng cố và phát triển thị trường này, khai thác tối đa các ưu đãi mà thị trường này còn dành cho Việt Nam chưa bị quản lý bằng hạn ngạch được hưởng ưu đãi thuế quan, bằng 70% mức thuế bình thường nếu bảo đảm tiêu chuẩn xuất xứ. Tăng cường các mối quan hệ kinh doanh trực tiếp với các Nhà nhập khẩu EU, một vấn đềđang được EU quan tâm. NhậtBản là thị trường mà Việt Nam xuất khẩu giầy dép lớn nhất trong khu vực Châu Á. Trong những tháng đầu năm, mức tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường này tăng khá cao, có thời điểm như hai tháng đầu năm 2006 tăng tới 75.8%. Xuất khẩu giầy dép vào Nhật đang tăng cả về thị phần và kim ngạch. Việt Nam đã vượt qua Indonsia vươn lên vị trí thứ 3 chỉđứng sau Trung Quốc và Italia. Mỹ là nước có nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu lớn nhất Thế giới. Hàng năm nhập khẩu khoảng 1.4 tỷđôi da giày các loại trị giá khoảng14 – 15 tỷ USD. Năm 2004 sản lượng của ngành da giày xuất khẩu vào thị trường Mỹ tiếp tục gia tăng, đạt 423 triệu USD, chiếm 15% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Đóng góp cho con số này là các công ty lớn của Việt Nam và các công ty có 100% vốn nước ngoài, đó là công ty Huy Hoàng, công ty TNHH Duy Hưng. 2. Đầu tư sản xuất, đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm Ngày nay, để sản phẩm có thể cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường buộc các nhà doanh nghiệp phải áp dụng khoa học tiên tiến, nhưng đểđạt hiệu quả cần phải có sự lựa chọn vàđịnh hướng phù hợp với điều kiện của từng xí nghiệp và trình độ của công nhân vì thế việc áp dụng một mô hình sản xuất chuyên môn hoá cao như các nước phát triển làđiều không dễ dàng mà cần lựa chọn máy móc, công nghệ phù hợp với công nhân làđiều quan trọng nhất. Đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân có tay nghề kỹ thuật cao, đủ trình độ chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu về sản phẩm, chủđộng trong sản xuất. Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu cũng như sản xuất phải đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, giảm bớt sự phụ thuộc của ngành vào nguồn nguyên liệu phụ nhập ngoại Đối với các cơ sở hiện có: Tăng cường đầu tư chiều sâu đối với các tranh thiết bịđặc biệt ở một số công đoạn quan trọng – làm tăng giá trị sản phẩm và kiểu dáng sản phẩm, bố trí sắp xếp lại quy mô nhà xưởng cho phù hợp với yêu cầu công nghệ, bố trí lại các cơ sở phân tán vào các khu tập trung ở cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh nhằm mở rộng thêm năng lực sản xuất với quy mô sản xuất lớn, lớn hơn đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đầu tư các cơ sở mới: Đểđạt được tốc độ tăng trưởng vàđẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu vào các thị trường mới, bên cạnh việc đầu tưchiều sâu và củng cố phát triển các cơ sở sản xuất hiện có, cần tăng cường xây dựng các dựán đầu tư với trên cơ sở một số yêu cầu như sau: Do đặc thùđòi hỏi các ngành sản xuất da giày cho xuất khẩu, các cơ sở sản xuất đầu tư mới chỉ nên tập trung ở các vùng thuận lợi về giao thông vận tải, cung ứng vật tư và giao nhận hàng hoá các vùng có các điều kiện cơ sở hạ tầng đáp ứng được các dịch vụ quản lý, điều hành kinh doanh… không nên phân tán ở quá nhiều địa phương sẽ khó khăn trong quá trình cạnh tranh vàảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các cơ sởđầu tư mới phải đáp ứng được đòi hỏi của khách hàng, nhất là những thị trường mới mà chúng ta đang quan tâm. Nghiên cứu mở rộng thị trường. Để khắc phục những bất lợi hiện nay tại thị trường EU, đồng thời đảm bảo việc làm cho người lao động. Theo Bộ công nghiệp, các doanh nghiệp cần chủđộng hơn trong việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới để giữ vững tốc độ tăng trưởng của nghành da giầy. Bên cạnh việc chuyển hướng sang thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, Mêxicô vì nhu cầu nhập khẩu da giày của những thị trường này vẫn đang tăng mạnh, các doanh nghiệp phải tăng cường tìm kiếm và khai thác các thị trường tiềm năng như Trung Đông, Châu Phi; đồng thơì tiếp tục đầu tư, đổi mới công nghệđể sản xuất các sản phẩm cao cấp tập trung vào những mặt hàng không bịáp dụng thuế như giầy thể thao và giày trẻ em. Chương trình xúc tiến Thương mại trọng điểm của ngành Da giày Việt Nam năm 2005 đãđược thông qua. Các nội dung chính của chương trình sẽđược triển khai trong năm nay và các năm tiếp theo. Đó là: Thông tin thương mại, tuyên truyền xuất khẩu, lập cơ sở dữ liệu hỗ trợ DN; tổ chức các khóa đào tạo, hội thảo liên quan đến hoạt động xúc tiến thương mại; tham gia các hội trợ triển lãm quốc tế ngành da giày và khảo sát thị trường; ứng dụng giao dịch trực tuyến trong thương mại điện tử của ngành da giày Việt Nam. Chương trình hội trợ, triển lãm, khảo sát thị trường năm 2005 do Hiệp hội Da giày Việt Nam tổ chức bao gồm 8 chuyến đi: Cộng Hòa Liên Bang Đức, Đông Quan- Quảng Đông (Trung Quốc), Tokyo-Oshaka-Ichia( Nhật Bản), Las Vegas(Hoa Kỳ), Dusedorf( CHLB Đức), Thượng Hải- Ôn Châu(Trung Quốc), Brazin và TP. Hồ Chí Minh. Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm năm 2005 chắc chắn sẽ mang lại nhiều đơn hàng cho các doanh nghiệp, nâng cao trình độ cho các cán bộ nghiệp vụ; tạo cơ hội xâm nhập thị trường mới; được cập nhật thông tin kịp thòi; quảng bá uy tín DN trên thị trường quốc tế; thu lợi nhiều hơn từ kết quả sản xuất, kinh doanh và gia tăng kim ngạch xuất khẩu. 4.Xây dựng cơ chế chính sách để khuyến khích đầu tư và mở rộng. Thu hút sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, kết hợp với việc nâng cấp vàđổi mới công nghệ. Ngành da giày hiện nay đang cần rất nhiều vốn đểđầu tưđổi mới công nghệ nhằm phát triển đồng bộ. Trong những năm này, nhu cầu về nâng cấp máy móc hiện đại là rất lớn để sản xuất ra da chất lượng cao, mẫu mãđa dạng. Việc sử dụng nguồn vốn huy động phải đựơc phân bố một cách hợp lý, phải tính đến hiệu quả tài chính là cơ sởđánh giá quan trọng nhất kết hợp với hiệu quả chung lợi ích của xã hội. Ngành da giày Việt Nam phải chú trọng đến giải pháp đầu tư chiều sâu, nâng cấp đổi mới công nghệđể phát triển ngành da giày Việt Nam thực sựtrở thành một ngành mũi nhọn cho xuất khẩu, có năng lực cạnh tranh cao trên các thị trường lớn. Bên cạnh việc đầu tư cho máy móc thiết bị cũng cần đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế sản phẩm, đây cũng là công đoạn quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Tham gia vào hoạt động liên hiệp xuất khẩu hàng da giày. Khi tham gia vào khu vực hóa, toàn cầu hoá kinh tế các nước thành viên phải mở cửa thị trường, xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan để cho hàng hóa được tự do lưu chuyển giữa các nước, thúc đẩy mậu dịch quốc tế phát triển mạnh mẽ trên thế giới và tác động đến nền kinh tế toàn cầu . Một trong những mục đích của khu vực hóa và toàn cầu hóa làđạt tới tự do hóa thương mại đang lan rộng thì hoạt động hợp tác kinh tế – thương mại giữa các nước càng có môi trường thuận lợi . Đây là qúa trình chuyển dịch với mục đích tạo ra nhiều sản phẩm và nhiều loại sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và thị trường khu vực nói riêng . Sự chuyển dịch này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát triển, cho việc tăng nhanh năng xuất lao động và hiệu quả sản xuất, phục vụ tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra các doanh nghiệp có thể cải thiện được chất lượng, mẫu mã, cải tiến xuât khẩu, đầu tư trang thiết bị công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng vàđa dạng hóa sản phẩm. Nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Bất cứ một sản phẩm nào muốn tồn tại và chiến thắng trên thị trường cạnh tranh: nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm , nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm . Giá cả :Bên cạnh những kết quảđãđạt được ngành dệt may nước ta hiện vẫn còn một số hạn chế bất cập vàđứng trước những khó khăn thách thức. Do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Châu Á, bắt đầu từ Thái Lan vào tháng 3 năm 1997 đã gây lên sự mất giá của các đồng tiền trong khu vực và giá nhân công ở khu vực giảm xuống , tỉ giá hối đoái cũng giảm theo làm cho mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam có giá cao khiến sự cạnh tranh của hàng dệt may nói riêng vốn lại càng giảm xuống và kết quả là thị trường tiêu thụ nước ta gặp nhiều khó khăn . Mặt khác, làm cho các doanh nghiệp Việt Nam mất đi cơ hội kêu gọi đầu tư trực tiếp của nước ngoài , bởi các đối tác trực tiếp nước ngoài chủ yếu là các nước, các công ty trong khu vực Đông Nam Á. Vì thế khi xảy ra khủng hoảng tài chính , các nước này gặp nhiều khó khăn buộc họ phải rút vốn vềđểổn định hoạt động kinh doanh trong nước . Cải cách hành chính giảm khó khăn về thủ tục cho nguồn xuất khẩu: Trên thị trường, giá cả có thể rất quan trọng. Nhưng chất lượng luôn là yếu tốđược quan tâm hàng đầu. Người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà các dịch vụ khách hàng bao gồm cả dịch vụ sau khi bán hàng . Nét độc đáo vàđặc biệt của sản phẩm so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh sẽ có thu hút lớn đối với người tiêu dùng. Do đó, cần đầu tư cho các khâu quản cáo, tiếp thị, cải tiến công nghệ , nghiên cứu va phát triển để tạo ra sự khác biệt giữa sản phẩm của mình đ
Tài liệu liên quan