Chuyên đề Phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt

Xã hội không ngừng vận động, phát triển hàng ngày, hàng giờ, cùng với nó là sự gia tăng không ngừng của các nhu cầu xã hội. Vòng xoáy của sự phát triển đã cuốn tất cả các ngành, các lĩnh vực vào guồng quay liên tục và nếu không thích nghi, không phát triển cùng với sự phát triển đó thì chúng sẽ bị loại bỏ và biến mất. Không chỉ vậy, sự cạnh tranh khốc liệt ấy diễn ra ngay trong từng ngành, từng lĩnh vực và ngành ngân hàng không phải là một ngoại lệ. Là một nhân tố không thể thiếu trong thị trường thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung, có ảnh hưởng tới toàn bộ các ngành và lĩnh vực khác, mỗi ngân hàng cũng phải phát triển không ngừng để theo kịp sự phát triển của xã hội. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và đang trong tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới kể từ khi chính thức gia nhập WTO vào ngày 07/01/2007. Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ các hoạt động, dịch vụ mới của các ngân hàng trong nước tuy nhiên số hoạt động, dịch vụ ngân hàng Việt Nam còn quá ít so với các ngân hàng trên thế giới. Việc đa dạng hóa hoạt động, các loại hình dịch vụ để giữ được vị thế cạnh tranh là vấn đề sống còn của các NHTM Việt Nam hiện nay khi sự cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt với sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài. Bao thanh toán là một hoạt động mới tại Việt Nam và được một số ngân hàng triển khai từ năm 2005 song thực tế nó đã ra đời từ thế kỷ XVII ở Anh và được thế giới công nhận rộng rãi từ năm 1974. Đây là hoạt động hứa hẹn mang lại thêm doanh thu cho ngân hàng, nâng cao vị thế cạnh tranh cho ngân hàng trong tiến trình hội nhập. Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt tuy chưa có hoạt động này song xét tổng thể các điều kiện Navibank đã có, việc phát triển hoạt động bao thanh toán là một quyết định phù hợp và hứa hẹn mang lại nhiều lợi thế cho ngân hàng. Đề tài “Phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt” hướng sâu vào việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn để phát triển thành công hoạt động hoàn toàn mới này tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt. Nội dung của chuyên đề bao gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển hoạt động bao thanh toán tại ngân hàng thương mại Chương 2: Sự cần thiết phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt

doc122 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NAVIBANK NAVIBANK CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP Phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Ký hiệu viết tắt Nguyên văn 1 ACB Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu 2 ATM Máy rút tiền tự động 3 BCT Bộ Công Thương 4 CIC Trung tâm thông tin tín dụng 5 CIF Mã số thông tin khách hàng 6 DN Doanh nghiệp 7 DNV&N Doanh nghiệp vừa và nhỏ 8 FCI Hiệp hội bao thanh toán quốc tế 9 KCN Khu công nghiệp 10 KCX Khu chế xuất 11 L/C Thư tín dụng 12 NHNN Ngân hàng Nhà nước 13 NHTM Ngân hàng thương mại 14 NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần 15 Navibank Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt 16 QĐ Quyết định 17 TCTD Tổ chức tín dụng 18 WTO Tổ chức thương mại quốc tế DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ Sơ đồ 1.1 Hệ thống một đơn vị bao thanh toán 23 Sơ đồ 1.2 Hệ thống hai đơn vị bao thanh toán 25 Bảng 2.1 Cơ cấu huy động nợ 56 Bảng 2.2 Cơ cấu dư nợ chovay 58 Biểu đồ 2.3 Tăng trưởng doanh thu từ năm 2006 tới năm 2008 tại NHTMCP Nam Việt 62 Biểu đồ 2.4 Chi phí phát sinh tại NHTMCP Nam Việt từ năm 2006 tới năm 2008 63 Biểu đồ 2.5 Tổng hợp doanh thu- chi phí- lợi nhuận trước thuế của 64 Biểu đồ 2.6 Sự gia tăng tổng tài sản của Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt từ năm 2006 tới năm 2008 66 Bảng 2.7 Bảng tổng hợp chỉ tiêu tài chính Nam Việt 67 Bảng 2.8 Tỷ lệ nợ xấu 72 Biểu đồ 2.9 diễn biến số dư nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt 72 Biểu đồ 2.10 Tình hình huy động nợ tại NHTMCP Nam Việt từ năm 2006 tới năm 2008 75 Biều đồ 2.12 Quá trình gia tăng vốn điều lệ tại NHTMCP Nam Việt từ năm 2006 tới năm 2008 78 Bảng 2.13 Cán bộ nhân viên Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt 80 Bảng 2.14 Bảng chấm điểm các chỉ tiêu tài chính 82 Bảng 2.15 Bảng chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính của Navibank 83 Bảng 2.16 Bảng xếp loại khách hàng của Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt 84 Biểu đồ 2.17 Kim ngạch xuất- nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2006-2008 88 LỜI MỞ ĐẦU Xã hội không ngừng vận động, phát triển hàng ngày, hàng giờ, cùng với nó là sự gia tăng không ngừng của các nhu cầu xã hội. Vòng xoáy của sự phát triển đã cuốn tất cả các ngành, các lĩnh vực vào guồng quay liên tục và nếu không thích nghi, không phát triển cùng với sự phát triển đó thì chúng sẽ bị loại bỏ và biến mất. Không chỉ vậy, sự cạnh tranh khốc liệt ấy diễn ra ngay trong từng ngành, từng lĩnh vực và ngành ngân hàng không phải là một ngoại lệ. Là một nhân tố không thể thiếu trong thị trường thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung, có ảnh hưởng tới toàn bộ các ngành và lĩnh vực khác, mỗi ngân hàng cũng phải phát triển không ngừng để theo kịp sự phát triển của xã hội. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển và đang trong tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới kể từ khi chính thức gia nhập WTO vào ngày 07/01/2007. Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ các hoạt động, dịch vụ mới của các ngân hàng trong nước tuy nhiên số hoạt động, dịch vụ ngân hàng Việt Nam còn quá ít so với các ngân hàng trên thế giới. Việc đa dạng hóa hoạt động, các loại hình dịch vụ để giữ được vị thế cạnh tranh là vấn đề sống còn của các NHTM Việt Nam hiện nay khi sự cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt với sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài. Bao thanh toán là một hoạt động mới tại Việt Nam và được một số ngân hàng triển khai từ năm 2005 song thực tế nó đã ra đời từ thế kỷ XVII ở Anh và được thế giới công nhận rộng rãi từ năm 1974. Đây là hoạt động hứa hẹn mang lại thêm doanh thu cho ngân hàng, nâng cao vị thế cạnh tranh cho ngân hàng trong tiến trình hội nhập. Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt tuy chưa có hoạt động này song xét tổng thể các điều kiện Navibank đã có, việc phát triển hoạt động bao thanh toán là một quyết định phù hợp và hứa hẹn mang lại nhiều lợi thế cho ngân hàng. Đề tài “Phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt” hướng sâu vào việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn để phát triển thành công hoạt động hoàn toàn mới này tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt. Nội dung của chuyên đề bao gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển hoạt động bao thanh toán tại ngân hàng thương mại Chương 2: Sự cần thiết phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển hoạt động bao thanh toán tại ngân hàng thương mại 1.1 Hoạt động bao thanh toán tại ngân hàng thương mại 1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại 1.1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, ngân hàng tập trung các nguồn tiền trong nền kinh tế và cung ứng vốn cho các tổ chức kinh tế, các cá nhân có nhu cầu về vốn. Nếu coi toàn bộ nền kinh tế là một cơ thể hoàn chỉnh thì dòng chảy của vốn như là những mạch máu chảy khắp cơ thể và các ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa dòng chảy đó thông suốt, giữ cho cơ thể khỏe mạnh. Có rất nhiều khái niệm về ngân hàng đã được đưa ra và chưa có một khái niệm thống nhất giữa các nước do hoạt động của các ngân hàng vô cùng đa dạng phức tạp và do sự khác nhau về tập quán mỗi quốc gia. Nếu xem xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp có quan điểm cho rằng “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”, quan điểm này mang tính chất mở và phù hợp với sự phát triển ngày càng đa dạng các dịch vụ ngân hàng. Tại Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dụng, “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán” và “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác” . Cách tiếp cận hạn chế này chưa bao quát hết được toàn bộ chân dung ngân hàng hiện đại với các hoạt động ngày càng đa dạng và phong phú. Trong các loại hình ngân hàng hoạt động trong nền kinh tế, NHTM chiếm đa số và có hoạt động đa dạng, phong phú nhất. Khác với các loại hình ngân hàng khác, NHTM hoạt động mang tính chất thương mại với mục tiêu lợi nhuận được ưu tiên hàng đầu. Do tính chất đặc biệt trong hoạt động, có tầm ảnh hưởng rộng lớn, các NHTM được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. NHNN thông qua các ngân hàng thương mại để thực thi chính sách tiền tệ, điều tiết kinh tế vĩ mô. Như vậy có thể quan niệm NHTM là TCTD thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ, cung cấp các dịch vụ tài chính đặc biệt là nhận tiền gửi, cấp tín dụng, dịch vụ thanh toán và các dịch vụ tài chính đa dạng khác nhằm mục tiêu lợi nhuận. 1.1.1.2 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Quá trình phát triển kinh tế tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngân hàng và đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, nhu cầu xã hội, nhu cầu sản xuất, kinh doanh đòi hỏi các NHTM phải đa dạng hóa hoạt động, đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu đó. Hoạt động của ngân hàng vô cùng đa dạng song tựu chung lại NHTM có các hoạt động chính sau: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động khác. a.Hoạt động huy động vốn Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM. Kết quả của hoạt động này sẽ trực tiếp chi phối tới kết quả của các hoạt động khác vậy nên ngân hàng luôn nỗ lực để mở rộng hoạt động này. Hoạt động huy động vốn của NHTM bao gồm: huy động vốn chủ sở hữu và huy động nợ song số vốn huy động từ nợ thường chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với vốn chủ sở hữu. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Ngân hàng có thể huy động vốn chủ từ nguồn lợi nhuận thu được, ngân hàng khi làm ăn có lãi thường trích một phần lợi nhuận để lại bổ sung vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào quyết định của mỗi ngân hàng. Những ngân hàng lớn, hoạt động lâu năm, có thu nhập sau thuế lớn thường có phần lợi nhuận giữ lại cao hơn. Ngoài ra ngân hàng có thể huy động thêm vốn chủ bằng việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn chủ sở hữu do NHNN quy định. Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần thiết. Hoạt động huy động vốn mang tính chất thường xuyên hơn là huy động nợ, ngân hàng huy động nợ từ nguồn tiền gửi của dân cư, các doanh nghiệp,các TCTD khác hoặc đi vay từ NHNN, các TCTD hoặc vay trên thị trường vốn. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường, nguồn này thường chiếm hơn 50% tổng nợ và vốn chủ sở hữu của ngân hàng và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, bên cạnh sự cạnh tranh về lãi suất, các ngân hàng đã phát triển đa dạng hình thức huy động tiền gửi: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM tuy nhiên khi cần NHTM thường vay mượn thêm, đây là một nguồn huy động khá quan trọng. NHTM có thể đi vay NHNN, các tổ chức tín dụng hoặc vay trên thị trường vốn. NHTM vay NHNN nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách như trường hợp thiếu hụt dự trữ. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Để bù đắp thiếu hụt dự trữ, các NHTM có thể vay mượn các TCTD khác trên thị trường liên ngân hàng. Trong trường hợp thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay, đầu tư trung và dài hạn, NHTM cũng có thể vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này. Họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. b. Hoạt động sử dụng vốn Ngân hàng tích tụ và tập trung vốn nhằm sử dụng cho các mục đích khác nhau và việc sử dụng vốn như thế nào sẽ quyết định tới doanh thu của NHTM. NHTM sử dụng vốn vào nhiều mục đích khác nhau trong đó cho vay và đầu tư là hai hoạt động chủ yếu mang lại doanh thu cho ngân hàng. NHTM sử dụng vốn để cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu về vốn vay để sử dụng vào một mục đích nhất định trong một khoảng thời gian xác định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. NHTM có thể cho vay nhằm các mục đích tiêu dùng như cho vay xây nhà, sửa nhà, mua trang thiết bị vật dụng trong gia đình, phương tiện đi lại, cho vay du học… Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, NHTM có thể cho vay bổ sung vốn lưu động, cho vay đầu tư tài sản cố định, cho vay tài trợ dự án… Tùy theo thỏa thuận, ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng các khoản vay từ ngắn hạn cho tới trung và dài hạn trên cơ sở có tài sản bảo đảm hoặc không. Tuy nhiên đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nên các ngân hàng thường phải trích lập dự phòng nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng. Tuy hoạt động cho vay là hoạt động hứa hẹn mang lại nhiều doanh thu cho ngân hàng tuy nhiên ngân hàng không sử dụng toàn bộ vốn huy động để cho vay do hầu hết các khoản cho vay có tính thanh khoản thấp, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường một cách dễ dàng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt và hơn nữa đó là những khoản có mức độ rủi ro cao nhất. Các NHTM sử dụng một phần vốn huy động dành cho hoạt động đầu tư, góp vốn, mua cổ phần. NHTM thường đầu tư vào các chứng khoán nhằm mục tiêu thanh khoản, đa dạng hóa tài sản. Các loại chứng khoán được ngân hàng đầu tư bao gồm: các chứng khoán của Chính Phủ (Trung ương hoặc địa phương) như tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ; chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính như cổ phiếu, các giấy nợ khác do các ngân hàng, các công ty tài chính phát hành hoặc chấp nhận thanh toán; chứng khoán của các công ty khác. Việc nắm giữ các loại chứng khoán này mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Ngoài hai hoạt động chính trên, NHTM còn đa dạng hóa hoạt động sử dụng vốn như cung cấp hoạt động chiết khấu, cho thuê tài sản trung và dài hạn, bảo lãnh. Ngân hàng cho phép chiết khấu thương phiếu, thực chất là việc người bán hàng bán các khoản phải thu của khách hàng cho ngân hàng để có vốn mua hàng dự trữ hoặc để mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngoài cách tài trợ trên, NHTM có thể tài trợ trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách cho thuê tài sản trung và dài hạn. Ngân hàng cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê và khách hàng được ưu tiên mua lại tài sản sau khi hết thời hạn thuê. Theo một cách khác, NHTM có thể sử dụng uy tín của mình để bảo lãnh cho khách hàng mua chịu hàng hóa, trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác… Doanh thu từ các hoạt động này chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng doanh thu của ngân hàng. c. Hoạt động khác Ngoài các hoạt động trên, NHTM còn cung cấp một loạt các dịch vụ cho khách hàng như: dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo quản vật có giá, dịch vụ tư vấn và ủy thác, dịch vụ môi giới, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý và các dịch vụ ngân hàng hiện đại khác. Đối với các dịch vụ này ngân hàng sẽ thu phí và nó sẽ mang lại các khoản doanh thu ngoài lãi cho ngân hàng. Dịch vụ thanh toán là một trong các dịch vụ phát triển nhất tại NHTM. Ngân hàng cho phép khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng và thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng không dùng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt mang lại rất nhiều tiện ích cho người sử dụng như an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí và ngày càng trở nên phổ biến hơn. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như ủy nhiệm chi, nhờ thu, LC, thanh toán bằng điện, thẻ… đã mang lại nhiều tiện ích hơn cho khách hàng và thúc đẩy dịch vụ thanh toán qua ngân hàng ngày càng phát triển. Dịch vụ bảo quản vật có giá của ngân hàng cho phép khách hàng an tâm hơn đối với những tài sản có giá trị của mình. Các NHTM thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và các tài sản có giá trị khác và giao cho khách hàng tờ giấy biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành) và khách hàng trả phí bảo quản cho ngân hàng. Dịch vụ tư vấn và ủy thác là dịch vụ ngân hàng đứng ra quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ các khách hàng cá nhân và doanh nghiệp có nhu cầu và thu phí. Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính nên sẽ tư vấn cho khách hàng đưa ra các quyết định đúng đắn hơn. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Hiện nay, các NHTM không chỉ tư vấn mà còn nhận ủy thác của khách hàng. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… thậm chí các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán của ngân hàng cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các NHTM tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ry môi giới chứng khoán. Ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hày gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… Ngày nay bên cạnh việc phát triển các hoạt động, dịch vụ truyền thống các NHTM còn triển khai thêm nhiều hoạt động, dịch vụ ngân hàng hiện đại mang lại nhiều lựa chọn tiện ích cho người sử dụng tiêu biểu như dịch vụ quyền chọn, hay như hoạt động bao thanh toán. 1.1.2 Hoạt động bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại 1.1.2.1 Khái niệm hoạt động bao thanh toán Hoạt động bao thanh toán đã có một chiều dài lịch sử phát triển lâu dài trên thế giới và trở thành một trong những hoạt động không thể thiếu đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Có quan điểm cho rằng manh mún của hoạt động bao thanh toán xuất hiện từ thời La Mã song theo quan điểm chung nhất của các nhà nghiên cứu bao thanh toán có nguồn gốc từ sự phát triển của thương mại quốc tế từ đầu thế kỷ XIII ở các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Tới thế kỷ XVII, hoạt động bao thanh toán chính thức ra đời tại Anh tuy nhiên mãi đến những năm 60 của thế kỷ XIX ở Châu Âu bao thanh toán mới được phát triển rầm rộ. Năm 1963, cơ quan kiểm soát tiền tệ công bố bao thanh toán là một hoạt động ngân hàng hợp pháp và các ngân hàng chính thức đi vào lĩnh vực này và bắt đầu từ năm 1974 thì nghiệp vụ này mới được công nhận bởi hầu hết ở các nước trên thế giới. Tại Việt Nam từ khi có quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng thì hoạt động bao thanh toán mới chính thức được triển khai tại một số NHTM Việt Nam. Có rất nhiều định nghĩa về bao thanh toán sau đây là một số định nghĩa tiêu biểu: Theo Hiệp hội bao thanh toán thế giới (FCI- Factors Chain International) bao thanh toán được định nghĩa là một dịch vụ tài chính trọn gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị bao thanh toán và bên bán, trong đó bên bán hàng sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán để nhận tiền ứng trước cho các khoản phải thu đó đồng thời đơn vị bao thanh toán sẽ quản lý và thu hộ các khoản phải thu đó. Trong trường hợp bao thanh toán miễn truy đòi, nếu bên mua phá sản hay mất khả năng chi trả thì đơn vị bao thanh toán sẽ thay bên mua trả tiền cho bên bán. Khi bên mua và bên bán ở hai nước khác nhau thì dịch vụ này được gọi là bao thanh toán quốc tế. Điều 1 Quy tắc chung về Bao thanh toán quốc tế của Hiệp hội bao thanh toán quốc tế- General Rules For International Factoring- FCI khái niệm “Hợp đồng bao thanh toán là hợp đồng theo đó người bán có thể hoặc sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu cho một đơn vị bao thanh toán có thể với mục đích nhận tài trợ thương mại hoặc không để nhận được ít nhất một trong các chức năng sau: theo dõi sổ sách các khoản phải thu, thu hộ các khoản phải thu, bảo hiểm rủi ro nợ xấu”. Theo Công ước UNIDROIT về Bao thanh toán quốc tế được thông qua ngày 28/05/1988 tại Ottawa- Canada
Tài liệu liên quan