Chuyên đề Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Eximbank Hà Nội

Khuyến khích xuất khẩu là một chủ trương lớn của Chính phủ bởi vai trò hết sức quan trọng của nó. Tuy nhiên đến nay hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Nổi lên cả là những khó khăn về vốn, về khả năng cạnh tranh cũng như thiếu thông tin về thị trường và đối tác. Là một ngân hàng xuất nhập khẩu Eximbank Hà Nội luôn sát cánh với các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu. Ngân hàng đã có rất nhiều hình thức tài trợ đối với các doanh nghiệp này. Tuy nhiên đến nay các hình thức vẫn còn đơn điệu và vẫn chưa có nhiều sự hỗ trợ cho doanh nghiệp. Chính vì vậy đa dạng hoá hình thức tài trợ xuất khẩu, triển khai những dịch vụ mới, tiện ích cho nhà xuất khẩu là hết sức cần thiết. Một trong những dịch vụ mới rất có triển vọng với nhiều lợi ích cho cả nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng như ngân hàng thương mại là nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu. Với chức năng tài chính, chức năng thanh toán và chức năng phòng chống rủi ro, đây thực sự là một dịch vụ đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của nhà xuất khẩu khi tham gia vào thị trường quốc tế. Với kết cấu ba chương: Chương I: Nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu Chương II: Khả năng phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội Chương III: Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội Hy vọng qua đề tài: “Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - chi nhánh Eximbank Hà Nội”, chúng ta sẽ có được cái nhìn tổng quát hơn về nghiệp vụ bao thanh toán, đồng thời có những giải pháp thiết thực, sớm đưa nghiệp vụ này áp dụng tại Việt Nam nói chung cũng như Eximbank Hà Nội nói riêng.

doc81 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Eximbank Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU Khuyến khích xuất khẩu là một chủ trương lớn của Chính phủ bởi vai trò hết sức quan trọng của nó. Tuy nhiên đến nay hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Nổi lên cả là những khó khăn về vốn, về khả năng cạnh tranh cũng như thiếu thông tin về thị trường và đối tác. Là một ngân hàng xuất nhập khẩu Eximbank Hà Nội luôn sát cánh với các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu. Ngân hàng đã có rất nhiều hình thức tài trợ đối với các doanh nghiệp này. Tuy nhiên đến nay các hình thức vẫn còn đơn điệu và vẫn chưa có nhiều sự hỗ trợ cho doanh nghiệp. Chính vì vậy đa dạng hoá hình thức tài trợ xuất khẩu, triển khai những dịch vụ mới, tiện ích cho nhà xuất khẩu là hết sức cần thiết. Một trong những dịch vụ mới rất có triển vọng với nhiều lợi ích cho cả nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng như ngân hàng thương mại là nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu. Với chức năng tài chính, chức năng thanh toán và chức năng phòng chống rủi ro, đây thực sự là một dịch vụ đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của nhà xuất khẩu khi tham gia vào thị trường quốc tế. Với kết cấu ba chương: Chương I: Nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu Chương II: Khả năng phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội Chương III: Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội Hy vọng qua đề tài: “Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - chi nhánh Eximbank Hà Nội”, chúng ta sẽ có được cái nhìn tổng quát hơn về nghiệp vụ bao thanh toán, đồng thời có những giải pháp thiết thực, sớm đưa nghiệp vụ này áp dụng tại Việt Nam nói chung cũng như Eximbank Hà Nội nói riêng. PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG I: NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN XUẤT KHẨU 1.1. Tín dụng tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại 1.1.1. Hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế Xuất nhập khẩu là hoạt động tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế và phát triển đất nước. Xuất nhập khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác thông qua hoạt động mua bán ở phạm vi quốc tế. Cùng với nhập khẩu, xuất khẩu có một vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia. Xuất khẩu là việc bán hàng hoá dịch vụ cho nước ngoài. Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vai trò to lớn của xuất khẩu được thể hiện ở nhiều khía cạnh. Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kĩ thuật, công nghệ tiên tiến. Có rất nhiều nguồn vốn để nhập khẩu như các nguồn vốn hình thành từ đầu tư nước ngoài, vay, viện trợ; thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ; xuất khẩu sức lao động... Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ... tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả lại bằng cách này hay cách khác, ở thời kì này hay thời kì sau. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, thực hiện công nghiệp hoá đất nước là nguồn vốn hình thành từ hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu – nguồn vốn duy nhất để trả nợ – trở thành hiện thực. Thứ hai, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và kĩ thuật hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là một tất yếu đối với chúng ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với quá trình sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong điều kiện nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ chủ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Hai là coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở nhiều mặt: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất những nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm vải... Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. - Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất tăng trưởng và phát triển ổn định. -Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. - Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế – kĩ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này cho thấy xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kĩ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước, tạo ra những năng lực sản xuất mới. - Thông qua xuất khẩu hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc canh tranh này ngày càng găy gắt và đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường. - Xuất khẩu đặt ra những đòi hỏi đối với các doanh nghiệp là luôn phải đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh. Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của người dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Một mặt sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện thu hút hàng triệu lao động vào làm ăn và có thu nhập không thấp. Mặt khác xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng trong mọi tầng lớp dân cư. Hoạt động xuất khẩu bảo đảm sự phát triển nhanh chóng và cân đối nền kinh tế trong nước, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, tạo thêm việc làm, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ, nâng cao đời sống dân cư. Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Rõ ràng là xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện sớm và thuận lợi hơn cho các hoạt động này phát triển. Ví như xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại kể trên lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu đã khai thác triệt để lợi ích so sánh của mỗi quốc gia, đạt quy mô tối đa cho mỗi ngành sản xuất, tạo điều kiện xây dựng các ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm, thúc đẩy các nhân tố phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu, trao đổi và nhanh chóng ứng dụng công nghệ mới, thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, nâng cao tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế quốc dân. Tóm lại đẩy mạnh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Có nhiều biện pháp để khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu. Một trong số đó là hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu của các ngân hàng thương mại mà chúng ta sẽ tìm hiểu dưới đây. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại Xét từ góc độ nghịêp vụ kĩ thuật, tài trợ xuất khẩu của ngân hàng thường được chia làm hai loại theo tiến trình giao hàng của nhà xuất khẩu là: Tài trợ trước khi giao hàng và tài trợ sau khi giao hàng. Thứ nhất là tài trợ trước khi giao hàng: Hình thức tài trợ này có mục đích là tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của nhà xuất khẩu để sản xuất chế biến hàng xuất khẩu hay thu mua hàng xuất khẩu, thực hiện hợp đồng ngoại thương. Ở hình thức này có các loại hình tài trợ chính sau: - Tài trợ cho từng thương vụ độc lập: Loại tài trợ này dựa trên cơ sở một đơn đặt hàng, một hợp đồng ngoại thương hoặc một L/C đã mở. Ngân hàng sẽ căn cứ vào tính hiệu quả của thương vụ và nguồn thu hồi nợ vay để ra quyết định tài trợ. Đây là loại hình tài trợ trước khi giao hàng chủ yếu, hay áp dụng. Để được tài trợ thì nhà xuất khẩu phải đạt được một số điều kiện nhất định như: Nhà xuất khẩu cần phải có một đơn đặt hàng, cam kết mua hàng chắc chắn từ phía nhà nhập khẩu nước ngoài, trong khi hàng hoá chưa được thu mua cũng như sản xuất, chế biến. Đối với những khách hàng mới hay những thương vụ kinh doanh mặt hàng mới, để được ngân hàng tài trợ khách hàng thường phải xuất trình một L/C đã được mở bởi một ngân hàng có uy tín, hoặc được xác nhận bởi một ngân hàng uy tín khác. Đối với loại hình này, mức tài trợ thông thường tính theo tỷ lệ phần trăm giá trị đơn đặt hàng, thường từ 70%-80%. Như vậy nhà xuất khẩu phải tham gia với một tỷ lệ vốn nhất định, nên họ cũng tăng trách nhiệm hơn trong việc thực hiện thương vụ của mình, đảm bảo hiệu quả, tạo khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Để khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ nhiều nước quy định tỷ lệ tối thiểu trong tổng dư nợ của ngân hàng dành cho tài trợ xuất khẩu, và thường áp dụng đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tài trợ theo hình thức này thường là tài trợ ngắn hạn, thời gian từ khi giải ngân để trả tiền hàng hóa dịch vụ cho nhà cung ứng cho đến khi thu được tiền từ nhà nhập khẩu. Nhiều ngân hàng tài trợ xuất khẩu yêu cầu nhà nhập khẩu hay ngân hàng mở L/C thanh toán trực tiếp cho ngân hàng mình bằng nhà xuất khẩu sẽ ký phát hối phiếu cho ngân hàng tài trợ hưởng. Sau khi trừ nợ gốc, lãi tiền vay, các chi phí dịch vụ phát sinh, số tiền còn lại sẽ được ghi có vào tài khoản của nhà xuất khẩu. - Tín dụng hạn mức trước khi giao hàng: Tín dụng hạn mức sẽ không bị hạn chế vào một thương vụ cụ thể nào mà nhằm tài trợ cho một chuỗi thương vụ liên tiếp trong một khoảng thời gian nhất định, thời hạn tối đa thường là 2 năm. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà tổ chức tín dụng mà nhà xuất khẩu thoả thuận trong hợp đồng tài trợ. Tuỳ theo thoả thuận, hạn mức tín dụng có thể được rút dần trong từng kì trả nợ, hoặc nhà xuất khẩu có thể vừa rút vốn vay vừa trả tiền nợ vay, hoặc ngân hàng quy định khoản rút vốn lần đầu phải được hoàn trả đầy đủ trước khi rút vốn lần tiếp theo, cứ như vậy cho hết hạn hợp đồng. Trên thực tế hình thức này ít được áp dụng, chỉ thực hiện với những khách hàng có uy tín, chấp hành nghiêm chỉnh lịch trình trả nợ ngân hàng. Loại hình này rất phù hợp với những hoạt động xuất khẩu có thị trường ổn định, thường xuyên, không mang tính thời vụ. Thứ hai là hình thức tài trợ sau khi giao hàng: Hình thức tài trợ này sử dụng khi nhà xuất khẩu có đủ khả năng tài chính để thực hiện sản xuất, thu mua trước khi giao hàng nhưng thiếu nguồn bù đắp cho các khoản phải thu, nhất vì trong thương mại quốc tế, sau khi giao hàng phải mất một thời gian nhất định thì việc thanh toán mới được diễn ra. Hình thức tài trợ này thường có sự tham gia của các công cụ như bộ chứng từ hàng xuất, hối phiếu đã chấp nhận còn thời hạn. Hình thức này gồm các loại hình chủ yếu sau: - Cho vay trong khuôn khổ Thư tín dụng: Ngân hàng có thể chiết khấu hoặc ứng trước đối với bộ chứng từ hàng xuất. Để đáp ứng nhu cầu vốn, sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu có thể thương lượng với ngân hàng để thực hiện chiết khấu hoặc ứng trước tiền. Để được chiết khấu và ứng trước, bộ chứng từ phải phù hợp với L/C, hoặc không phù hợp nhưng được ngân hàng nước ngoài chấp nhận thanh toán. Tuỳ vào chất lượng bộ chứng từ, mặt hàng xuất khẩu, thị trường, đối tác nhập khẩu, uy tín của ngân hàng mở L/C… ngân hàng sẽ quyết định chiết khấu có truy đòi hay miễn truy đòi. Chiết khấu bộ chứng từ miễn truy đòi là việc dựa trên cơ sở bộ chứng từ hàng xuất, sau khi trừ chi phí phát sinh liên quan, ngân hàng sẽ thanh toán số tiền còn lại cho nhà xuất khẩu, bất kể phía nhà nhập khẩu có thanh toán hay không. Trường hợp này chỉ áp dụng với những bộ chứng từ có chất lượng tốt, mức độ rủi ro thấp. Chiết khấu bộ chứng từ có truy đòi là việc ngân hàng dựa trên bộ chứng từ hàng xuất, sau khi trừ chi phí liên quan, sẽ thanh toán số tiền còn lại cho nhà xuất khẩu với điều kiện sẽ truy đòi nhà xuất khẩu nếu ngân hàng không thu được tiền từ ngân hàng mở L/C. Trường hợp này ít rủi ro hơn đối với ngân hàng thương mại tham gia chiết khấu. - Cho vay trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ. Trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ, nhà xuất khẩu uỷ thác các chứng từ về hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ khác cho ngân hàng của mình, chuyển tới ngân hàng nhà nhập khẩu hoặc tới một ngân hàng giao dịch với chỉ thị giao các chứng từ này cho nhà nhập khẩu khi đã thanh toán hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi nợ kèm theo. Tuy nhiên từ lúc gửi chứng từ cho đến khi xuất trình với người thanh toán có thể mất một khoảng thời gian nhất định, đặc biệt khi thoả thuận ngày thanh toán muộn hơn. Khi đó nếu có nhu cầu vốn, doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, chiết khấu hoặc ứng trước bộ chứng từ thanh toán. Hình thức này tương tự như đối với L/C, tuy nhiên nó không được đảm bảo về mặt tín nhiệm, do đó chỉ nên áp dụng chiết khấu có truy đòi. - Chiết khấu hối phiếu: Với hình thức này, ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho khách hàng dưới hình thức mua lại các hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán. Điều này có nghĩa là ngân hàng mua lại các khoản nợ phải trả hoặc các khoản nợ phải đòi. Chiết khấu hối phiếu tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu nhận được tiền sớm hơn, nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn đối với khoản tín dụng cung ứng hàng mà anh ta đã cấp cho nhà nhập khẩu. Đây là hình thức tài trợ xuất khẩu rất phổ biến trong hoạt động ngoại thương. - Tín dụng Bao thanh toán: Bao thanh toán là một hình thức tài trợ xuất khẩu trong đó ngân hàng sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ người mua hàng, đồng thời cung cấp các dịch vụ quản lý sổ cái cho bên xuất khẩu. Trong nghiệp vụ này, đối tượng chính là các khoản phải thu nên tổ chức bao thanh toán quan tâm đến nhà nhập khẩu, tổ chức bao thanh toán nhập khẩu là chủ yếu. Chính vì vậy mà việc đánh giá khả năng tài chính của các đối tượng trên là quan trọng nhằm đánh giá mức độ rủi ro cũng như tỷ lệ ứng trước và chiết khấu trong hoạt động bao thanh toán. Thực hiện nghiệp vụ này, tổ chức bao thanh toán thực hiện đồng thời chức năng thanh toán, chức năng tài chính và chức năng phòng chống rủi ro. Có hai loại bao thanh toán là bao thanh toán truy đòi và bao thanh toán miễn truy đòi tuỳ theo thoả thuận giữa tổ chức bao thanh toán và nhà xuất khẩu. 1.2. Nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu 1.2.1. Nghiệp vụ bao thanh toán 1.2.1.1.Khái niệm Có rất nhiều những cách hiểu khác nhau về Bao thanh toán (Factoring). Theo từ điển kinh tế (Dictionary of Economics – Christopher Pass & Bryar Lones) “Factoring là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên nghiệp mua lại các khoản nợ của một công ty với số tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã mua và giá thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại tránh được những phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả.” Còn theo từ điển thuật ngữ ngân hàng – Hans Klaus thì “ Factoring là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài chính chuyên nghiệp. Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông thường công ty mua nợ phải chịu mọi rủi ro mất khả năng thanh toán của món nợ.” Một khái niệm khác về Bao thanh toán cho rằng: “Factoring là việc mua lại các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ của khách hàng trên cơ sở không truy đòi và tiến hành một số các dịch vụ khác ngoài việc ứng trước các khoản nợ. Công ty mua nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và tương lai của người bán và xác lập các hạn mức tín dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp cho công ty mua nợ bản sao hoá đơn. Khoản ứng trước thường từ 80 – 90% trị giá hoá đơn. Khoản dự trữ 10%-20% được công ty mua nợ giữ lại để phòng ngừa hàng trả lại, hàng giao thiếu, hoặc do các yêu cầu khác của người mua. Thường thường vào cuối tháng, công ty mua nợ tính toán mức phí thu được trên số dư các khoản nợ chưa thu và cấp thêm vốn cho khách hàng.” Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 ban hành quy chế hoạt động Bao thanh toán của các Tổ chức tín dụng thì Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua, bán hàng. Qua các khái niệm trên ta thấy Bao thanh toán là một hình thức tài trợ trọn gói kết hợp việc tài trợ vốn lưu động, tránh rủi ro tín dụng, quản lý những khoản phải thu và đảm nhiệm dịch vụ nhờ thu. Nó được thực hiện dưới một thoả thuận giữa nhà Bao thanh toán và người bán hàng. Với thoả thụân này tổ chức thực hiện Bao thanh toán mua các khoản phải thu của người bán hàng, thông thường dưới hình thức miễn truy đòi và chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của người nợ. Nếu bên nợ phá sản hoặc mất khả năng thanh toán vì những lý do khác nhau, tổ chức Bao thanh toán sẽ vẫn thực hiện thanh toán cho người bán hàng. 1.2.1.2.Phân loại Có nhiều cách phân loại bao thanh toán theo những tiêu chí khác nhau. - Với ý nghĩa là Factoring nhằm bảo hiểm rủi ro thanh toán, chúng ta có hai loại Bao thanh toán tuyệt đối (Bao thanh toán không truy đòi) và Bao thanh toán tương đối ( Bao thanh toán truy đòi). Bao thanh toán tương đối (Bao thanh toán truy đòi – recourse Factoring): Ngân hàng sẽ thanh toán tiền cho người bán hàng, nhưng với thoả thuận người bán vẫn chịu trách nhiệm rủi ro nếu người mua không trả tiền. Như vậy nhà Bao thanh toán không mua đứt các khoản phải thu mà chỉ dựa vào đó để tài trợ xuất khẩu với điều kiện là có truy đòi, nghĩa là người bán phải hoàn trả nợ vay cho nhà Bao thanh toán nếu không thu được tiền bán hàng. Hợp đồng Bao thanh toán sẽ xác định sau bao nhiêu ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán người bán hàng phải hoàn trả số tiền ứng trước cho tổ chức Bao thanh toán. Theo đó, chi phí đối với Bao thanh toán tương đối sẽ thấp hơn chi phí Bao thanh toán tuyệt đối và có thể chỉ đòi hỏi ít yêu cầu hơn từ từ phía người bán và khách hàng của họ. Đó là bởi vì người bán là người gánh chịu rủi ro từ nợ xấu. Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau. - Hợp đồng Bao thanh toán thực hiện thanh toán trong vòng 3 tháng với 80% giá trị hoá đơn sẽ được ứng trước. - Ngày 30 – 4, hoá đơn phát sinh với giá trị $10.000, và tổ chức Bao thanh toán sẽ ứng trước nhà xuất khẩu 80% trị giá, tương đương $8000. - Nhà xuất khẩu mong muốn nhà nhập khẩu sẽ thanh toán sau thời hạn 3 tháng bởi vì anh ta phải chịu trách nhiệm về những khoản nợ. Tổ chức bao thanh toán với tư cách là người quản lý các khoản nợ, quản lý sổ cái bán hàng sẽ theo đuổi quá trình thanh toán cho đến ngày đáo hạn thanh toán. - Vào ngày 31 t
Tài liệu liên quan