Nói đến sản xuất kinh doanh dưới bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào không ai có thể quên vấn đề hiệu quả. Năng suất - chất lượng- hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất, là thước đo trình độ phát triển về mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như từng đơn vị cơ sở.
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tạo tiền đề phấn đấu đạt mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như tích luỹ cho xã hội.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp không chủ động khai thác hết khả năng sẵn có của mình để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao mà có thái độ ỷ lại trông chờ vào nhà nước. Từ khi bước sang cơ chế thị trường với sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã có không ít các doanh nghiệp do không thích nghi được với cơ chế mới nên đã bị đào thải (giải thể hoặc phá sản). Nền kinh tế thị trường đã mở ra một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp hội nhập và phát triển nhưng để thực hiện được điều đó thì mỗi doanh nghiệp phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra, phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là phải tạo ra lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng tăng.
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế có hiệu quả nhất, là chỉ tiêu phản ánh trình độ quản lý sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn, trình độ tổ chức sản xuất sản phẩm. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp. Việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc.
Xăng dầu là mặt hàng không thể thiếu được của nền kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến các ngành nghề khác. Sự biến động nhỏ trên thị trường xăng dầu sẽ gây tác động lớn đến hoạt động kinh tế quốc gia. Mặc dù sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã tìm ra nhiều nguồn năng lượng mới như năng lượng hạt nhân, năng lượng mặt trời nhưng xăng dầu vẫn là nguồn năng lượng chủ yếu trong vài thập kỷ tới. Hơn nữa, trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước thì tất cả các ngành kinh tế chủ lực như giao thông, điện lực, xây dựng đều cần đến xăng dầu.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nhận thức tổng hợp và chuyên ngành tài chính kế toán, chuyên đề đã phân tích và đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận và phân phối lợi nhuận của công ty, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao lợi nhuận của công ty.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Với trình độ còn non kém về thực tiễn trong công tác làm kế toán, em chưa có đủ khả năng đi sâu nghiên cứu ra toàn bộ lĩnh vực kế toán. Trên cơ sở kiến thức được trang bị, em chỉ tập trung xây dựng phân tích và đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty còn các nội dung khác chỉ nêu và phân tích một cách khái quát nhằm hỗ trợ cho nội dung nghiên cứu chính.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp hệ thống logic lịch sử. Nghiên cứu bối cảnh kinh tế, xã hội, điều kiện và năng lực kinh doanh hiện tại của công ty, xem xét các hoạt động kinh doanh của công ty trong mối quan hệ biện chứng nhân quả với các hoạt động khác. Phương pháp nghiên cứu cụ thể là kết hợp phân tích kinh tế với phân tích tác nghiệp nhằm đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam (XDHKVN), em đã nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Phương pháp phân tích lợi nhuận và phân phối lợi nhuận tại Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam ”
Nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Chương II: Tình hình thực hiện lợi nhuận và phân phối lợi nhuận tại Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam.
55 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phương pháp phân tích lợi nhuận và phân phối lợi nhuận tại Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Nói đến sản xuất kinh doanh dưới bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào không ai có thể quên vấn đề hiệu quả. Năng suất - chất lượng- hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất, là thước đo trình độ phát triển về mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như từng đơn vị cơ sở.
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tạo tiền đề phấn đấu đạt mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như tích luỹ cho xã hội.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp không chủ động khai thác hết khả năng sẵn có của mình để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao mà có thái độ ỷ lại trông chờ vào nhà nước. Từ khi bước sang cơ chế thị trường với sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã có không ít các doanh nghiệp do không thích nghi được với cơ chế mới nên đã bị đào thải (giải thể hoặc phá sản). Nền kinh tế thị trường đã mở ra một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp hội nhập và phát triển nhưng để thực hiện được điều đó thì mỗi doanh nghiệp phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra, phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là phải tạo ra lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng tăng.
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế có hiệu quả nhất, là chỉ tiêu phản ánh trình độ quản lý sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn, trình độ tổ chức sản xuất sản phẩm. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp. Việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc.
Xăng dầu là mặt hàng không thể thiếu được của nền kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến các ngành nghề khác. Sự biến động nhỏ trên thị trường xăng dầu sẽ gây tác động lớn đến hoạt động kinh tế quốc gia. Mặc dù sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã tìm ra nhiều nguồn năng lượng mới như năng lượng hạt nhân, năng lượng mặt trời… nhưng xăng dầu vẫn là nguồn năng lượng chủ yếu trong vài thập kỷ tới. Hơn nữa, trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước thì tất cả các ngành kinh tế chủ lực như giao thông, điện lực, xây dựng… đều cần đến xăng dầu.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nhận thức tổng hợp và chuyên ngành tài chính kế toán, chuyên đề đã phân tích và đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận và phân phối lợi nhuận của công ty, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao lợi nhuận của công ty.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Với trình độ còn non kém về thực tiễn trong công tác làm kế toán, em chưa có đủ khả năng đi sâu nghiên cứu ra toàn bộ lĩnh vực kế toán. Trên cơ sở kiến thức được trang bị, em chỉ tập trung xây dựng phân tích và đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty còn các nội dung khác chỉ nêu và phân tích một cách khái quát nhằm hỗ trợ cho nội dung nghiên cứu chính.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp hệ thống logic lịch sử. Nghiên cứu bối cảnh kinh tế, xã hội, điều kiện và năng lực kinh doanh hiện tại của công ty, xem xét các hoạt động kinh doanh của công ty trong mối quan hệ biện chứng nhân quả với các hoạt động khác. Phương pháp nghiên cứu cụ thể là kết hợp phân tích kinh tế với phân tích tác nghiệp nhằm đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam (XDHKVN), em đã nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Phương pháp phân tích lợi nhuận và phân phối lợi nhuận tại Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam ”
Nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Chương II: Tình hình thực hiện lợi nhuận và phân phối lợi nhuận tại Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại Công ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam.
Chương I: lí luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
I. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1. Khái niệm
Lợi nhuận và bản chất của lợi nhuận
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận được coi là một tiêu chí quan trọng, là mục tiêu cuối cùng mà mỗi doanh nghiệp đều hướng tới. Khi tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào người ta đều tính toán đến lợi nhuận mà mình có thể thu được từ hoạt động đó. Thực tế, có nhiều đối tượng quan tâm đến kết quả kinh doanh - lợi nhuận của doanh nghiệp, do đó tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về lợi nhuận, xét trên góc độ khác nhau có thể có các khái niệm khác nhau về lợi nhuận như sau:
Các nhà kinh tế học cổ điển trước Mark cho rằng: "Cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất gọi là lợi nhuận".
Theo Mark: ''Giá trị thặng dư hay phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận".
Các nhà kinh tế học hiện đại mà đại diện là David - Beggs, Samuelson cho rằng "Sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định là lợi nhuận''.
Các quan điểm trên tuy được phát biểu khác nhau nhưng họ đều cho rằng lợi nhuận là phần dôi ra so với chi phí đã bỏ ra. Đó chính là bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
Có thể nói kinh tế thị trường là kết quả tất yếu của sự phát triển xã hội mà ở đó các doanh nghiệp, các tổ chức, các cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách này hay cách khác, cạnh tranh với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường để đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phát huy tối đa khả năng và tinh thần tự chủ của mình để tạo ra thu nhập và lợi nhuận vì sự phát triển của chính bản thân.
Như vậy, lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó là khoản chênh lệch giữa các khoản thu nhập thu được và các khoản chi phí bỏ ra để đạt được thu nhập đó trong một thời kỳ nhất định. Trong đó các khoản thu nhập của doanh nghiệp là toàn bộ khoản tiền mà doanh nghiệp thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động khác của doanh nghiệp như hoạt động tài chính, hoạt động bất thường trong một thời kỳ nhất định.
Ta có công thức xác định: Lợi nhuận = Tổng thu nhập - Tổng chi phí
2. Nội dung lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường với cơ chế hạch toán kinh doanh, phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, đồng thời để có thể tối đa hoá được lợi nhuận, các doanh nghiệp đã đầu tư vào nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy lợi nhuận thu được cũng đa dạng theo phương thức đầu tư của doanh nghiệp. Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp thường bao gồm:
- Lợi nhuận hoạt động kinh doanh : Là khoản chênh lệch giữa doanh thu hoạt động kinh doanh trừ đi chi phí hoạt động kinh doanh bao gồm giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ và thuế phải nộp theo quy định (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp). Bộ phận lợi nhuận này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp .
- Lợi nhuận hoạt động tài chính: Ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp còn có thể tham gia vào hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính là những hoạt động liên quan đến việc đầu tư vốn ra bên ngoài doanh nghiệp như: góp vốn liên doanh liên kết, góp vốn cổ phần, hoạt động mua bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi cho vay khác ngoài nguồn vốn kinh doanh và quỹ…. Các khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động này cũng góp phần lớn vào việc làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp .
- Lợi nhuận hoạt động bất thường: Đó là khoản lãi thu được từ các hoạt động (nghiệp vụ) riêng biệt khác ngoài những nghiệp vụ nêu trên. Những khoản này phát sinh không thường xuyên, doanh nghiệp không thể dự kiến trước được. Lợi nhuận từ hoạt động này bao gồm: lợi nhuận các khoản phải trả không có chủ nợ, thu hồi các khoản nợ khó đòi đã được duyệt bỏ, các khoản thu từ bán vật tư tài sản thừa sau khi đã bù trừ hao hụt - mất mát, lãi thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản, tiền được phạt, được bồi thường.
Vậy nói chung, tổng lợi nhuận của doanh nghiệp được tạo thành từ 3 bộ phận nói trên. Tuy nhiên tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận có sự khác biệt nhau trong các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau và môi trường kinh tế khác nhau. Nhưng nhìn chung lợi nhuận hoạt động kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng cao và có ý nghĩa quyết định tới tổng lợi nhuận của doanh nghiệp .
Việc xem xét nội dung lợi nhuận doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp ta thấy được khoản mục nào tạo nên lợi nhuận và tỷ trọng của từng khoản mục trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó có thể xem xét đánh giá kết quả từng hoạt động để tìm ra và phát huy các mặt tích cực cũng như khắc phục và hạn chế các mặt tiêu cực góp phần giúp doanh nghiệp đề ra quyết định thích hợp nhằm nâng cao hơn nữa lợi nhuận của doanh nghiệp .
3. Vai trò của lợi nhuận
Lợi nhuận không những có vai trò quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội.
*Đối với doanh nghiệp:
Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không thì điều kiện tiên quyết là doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận hay không. Lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời nó là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên 4 phạm vi chính: mức nộp ngân sách với Nhà nước, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên, mở rộng quy mô kinh doanh và khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường .
Lợi nhuận giúp cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng quy mô sản xuất: Cơ chế quản lý mới đã xoá bỏ sự bao cấp của Nhà nước, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự chủ về tài chính, phải chủ động tìm nguồn tài nguyên cho mọi nhu cầu sản xuất. Lợi nhuận không những trở thành mục đích thiết thực mà còn là động lực mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu không có lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ không mở rộng được quy mô sản xuất, không có điều kiện để thay đổi công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải thiện đời sống cho cán bộ công viên… từ đó sản phẩm bán ra không đáp ứng yêu cầu về chất lượng, giá thành cao dẫn đến thất bại trong cạnh tranh, về lâu dài có thể dẫn tới phá sản.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật chất lượng sản phẩm chủ yếu được quyết định bởi trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Nhờ có vốn bổ sung từ lợi nhuận, doanh nghiệp mới có điều kiện đầu tư vốn phát triển kinh doanh cả chiều rộng lẫn chiều sâu, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới, ứng dụng công nghệ vào sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần tăng năng suất lao động, tăng khối lượng sản xuất, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm phục vụ tối đa nhu cầu người tiêu dùng, nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp thương mại nhờ có thêm vốn, doanh nghiệp sẽ mở rộng được mạng lưới tiêu thụ, tăng khối lượng hàng hoá vận chuyển, đa dạng hoá chủng loại mặt hàng kinh doanh. Nhờ vậy mà quy mô kinh doanh tăng lên.
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Mục đích của nhà sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, mục đích của người cung cấp sức lao động là tiền lương. Tiền lương có hai chức năng: đối với nhà sản xuất, nó là một yếu tố chi phí còn đối với người lao động nó là thu nhập, là lợi ích kinh tế của họ. Đối với doanh nghiệp chi phí thuê sức lao động là thực hiện đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận, vì vậy đó là chi phí được bù đắp ở kết quả lao động, năng suất lao động của cán bộ công nhân viên tăng lên là điều kiện để doanh nghiệp tăng lợi nhuận. Người lao động nhận được tiền công vừa đảm bảo nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống vừa thực hiện tái sản xuất lao động. Doanh nghiệp có lợi nhuận thì thu nhập của người lao động được đảm bảo, từ đó sẽ kích thích họ hăng say lao động, có trách nhiệm với chất lượng sản phẩm, phát huy tối đa sức sáng tạo của họ trong sản suất. Ngoài ra, khi lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên đồng nghĩa với việc tăng thêm các quỹ trong đó có quỹ khen thưởng, phúc lợi và lợi ích của người lao động cũng tăng lên.
Lợi nhuận cũng góp phần khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thương trường. Doanh nghiệp có lợi nhuận chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, sử dụng vốn kinh doanh hợp lý, bộ phận quản lý có tài năng lãnh đạo, lực lượng cán bộ công nhân viên có trình độ có thực lực. Nhờ vậy mà uy tín, thế lực của doanh nghiệp ngày càng tăng, được khách hàng - nhà cung cấp - các tổ chức tín dụng và nhà nước tín nhiệm, từ đó hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi, hàng hoá được tiêu thụ nhanh hơn, doanh nghiệp dễ dàng huy động vốn bằng cách sử dụng tín dụng hàng hoá, phát hành cổ phiếu, liên doanh liên kết…
* Đối với xã hội:
Lợi nhuận không những có vai trò quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng nền kinh tế xã hội. Hoạt động kinh doanh có lợi nhuận là điều kiện để doanh nghiệp có thể tích luỹ vốn thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng đối với doanh nghiệp mình . Khi mỗi doanh nghiệp với tư cách là một tế bào trong nền kinh tế thực hiện tái sản xuất xã hội cũng tất yếu là quá trình tái sản xuất mở rộng. Mặt khác, khi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lợi thì nguồn thu của ngân sách Nhà nước cũng tăng lên (thông qua sắc thuế theo quy định của pháp luật) đáp ứng nhu cầu tích luỹ vốn để thực hiện quá trình đầu tư phát triển kinh tế theo các chức năng của Nhà nước như: phát triển kinh tế, củng cố tiềm lực quốc phòng, duy trì bộ máy quản lý hành chính, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân.
Qua việc phân tích trên, ta thấy lợi nhuận không chỉ có vai trò quan trọng tới sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nền quốc dân, bởi lợi ích của mỗi doanh nghiệp bao giờ cũng gắn liền với lợi ích của Nhà nước, của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Lợi nhuận làm cho Nhà nước doanh nghiệp, người lao động có quan hệ gắn bó và cùng phát triển .
II. phương pháp xác định lợi nhuận và phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp
1. Phương pháp xác định lợi nhuận
Trong nền kinh tế thị trường, để tăng cường khả năng cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tiến hành đa dạng hoá hoạt đông kinh doanh của mình trên nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó lợi nhuận doanh nghiệp thu được từ các hoạt động khác nhau như : hoạt động kinh doanh , hoạt động tài chính , hoạt động bất thường. Tổng lợi nhuận sẽ là tổng hợp lợi nhuận từ các hoạt động đó.
Lợi nhuận doanh nghiệp
=
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
+
Lợi nhuận hoạt động tài chính
+
Lợi nhuận hoạt động bất thường
Xem xét từng nhân tố ta có:
*Lợi nhuận hoạt động kinh doanh: Là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ trong năm tài chính của doanh nghiệp và được xác định theo công thức:
Lợi nhuận HĐKD
=
Doanh thu thuần
-
Trị giá vốn hàng bán
-
Chi phí
bán hàng
-
Chi phí
quản lý DN
Trong đó:
- Doanh thu thuần là số chênh lệch giữa tổng doanh thu với các khoản giảm trừ, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Doanh thu thuần được xác định như sau:
Doanh thu thuần
=
Tổng doanh thu bán hàng
-
Khoản giảm giá hàng bán
-
Trị giá hàng bán bị trả lại
-
Thuế gián thu
+ Tổng doanh thu (thu nhập từ hoạt động kinh doanh) có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nó đảm bảo trang trải các khoản chi phí, thực hiện tái sản xuất và các nghĩa vụ với Nhà nước. Doanh thu bán hàng là nguồn thu quan trọng chủ yếu trong tổng nguồn thu từ hoạt động kinh doanh. Đó là toàn bộ tiền thu về tiêu thụ sản phẩm và cung ứng dịch vụ cho khách hàng, sản phẩm được xác định là tiêu thụ khi được đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.
+ Các khoản giảm trừ bao gồm: giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại.
+ Thuế gián thu: như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu…là các loại thuế theo luật định áp dụng cho các loại hàng hoá thuộc phạm vi chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá .
- Sau khi xác định được chỉ tiêu doanh thu thuần và giá vốn hàng bán (hay giá thành hàng bán) ta có chỉ tiêu tài chính trung gian là "lãi gộp "
Lãi gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán
- Chi phí bán hàng: gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ như: tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho nhân viên bán hàng, tiếp thị đóng gói bảo quản, khấu hao tài sản cố định, chi phí vật liệu bao bì, dụng cụ đồ dùng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bảo hành, quảng cáo….
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: bao gồm các chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu tiêu dùng cho văn phòng, khấu hao tài sản cố định dùng chung toàn doanh nghiệp ….
Qua việc xác định trên ta có thể tổng kết cách xác định lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo sơ đồ sau:
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ
Doanh thu thuần
Lãi gộp
Lợi nhuận từ HĐKD
Giá vốn hàng bán
Chi phí bán hàng & Chi phí QLDN
Các khoản giảm trừ
* Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Là số chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính
Lợi nhuận hoạt động tài chính được xác định theo công thức:
Lợi nhuận hoạt động tài chính
=
Doanh thu hoạt động tài chính
-
Chi phí hoạt động tài chính
-
Thuế gián thu
(nếu có)
Các khoản này bao gồm:
- Lợi nhuận từ hoạt động góp vốn liên doanh.
- Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn và dài hạn.
- Lợi nhuận về cho thuê tài sản.
- Lợi nhuận do kinh doanh ngoại tệ.
- Hoàn nhập số dư khoản dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán ngắn và dài hạn.
- Lãi tiền gửi ngân hàng hoặc lãi cho vay các đối tượng khác.
- Lợi nhuận về các hoạt động đầu tư khác.
*Lợi nhuận từ hoạt động bất thường :
Là những khoản lợi nhuận không dự tính trước hoặc có dự kiến nhưng ít có khả năng thực hiện hoặc những khoản thu mang tính chất không thường xuyên. Những khoản lợi nhuận bất thường có thể do chủ quan hoặc do khách quan mang lại.
Lợi nhuận hoạt động bất thường được xác định theo công thức:
Lợi nhuận hoạt động bất thường
=
Doanh thu
bất thường
-
Chi phí
bất thường
-
Thuế gián thu
(nếu có)
- Thu nhập bất thường gồm:
+ Các khoản nợ khó đòi đã duyệt bỏ (theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán) nay đòi được.
+ Các khoản phải trả nhưng không có chủ nợ.
+ Chênh lệch nhượng bán thanh lý tài sản.
+ Thu từ việc bán vật tư , phế liệu tài sản thừa.
+ Các khoản lợi tức năm trước bỏ sót chưa ghi sổ.
+ Số dư hoàn nhập quỹ các khoản dự phòng, giảm giá, phải thu khó đòi.
+ Các khoản thu nhập bất thường khác: tiền được phạt, tiền được bồi thường, ngân sách thoái thu thuế, các khoản trích thành sản phẩm thừa khi hết hạn…
- Chi phí bất thường: là những chi phí liên quan đến các nghiệp vụ riêng biệt với hoạt động bất thường, cũng có thể là những khoản chi phí bị bỏ sót từ những năm trước khi lên báo cáo. Những khoản chi phí bất thường có thể do chủ quan hay khách quan doanh nghiệp mang lại bao gồm.:
+ Chi phí thanh lý, nhượng bán tài sản cố định.
+ Hao hụt vật tư hàng hoá trong quá trình trong quá trình vận chuyển tr