Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, sự di chuyển các nguồn lực ( K,R, Kỹ Thuật, Lao Động .) giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng và phát triển. Sự di chuyển đó được quyết định bởi đầu tư quốc tế ( bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp ). Cùng với đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp có vai trò quan trọng. Dòng đầu tư nà
y đang vận động theo nhiều chiều, dưới nhiều hình thức và ngày càng có xu hướng tự do hóa. Đây là một tất yếu khách quan, các nước đều phải chấp nhận tính tất yếu này dù là nước phát triển hay đang phát triển. Nước nào nhận thức được nó và tạo điều kiện cho nó vận động thì nước đó sẽ phát triển lớn mạnh .
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nhân tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế. Muốn phát triển nhanh các nước cần phải lợi dụng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường lao động . của nhiều nước. Song nguồn FDI trên thế giới là có hạn mà nhu cầu về nó ngày càng lớn. Nó càng trở nên bức thiết trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và phân công lao động quốc tế sâu rộng ngày nay.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế của mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển đổi này, Việt Nam cần vốn đầu tư nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý. nhằm tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm trong nước. Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển kinh tế xã hội6
Chính vì sự cần thiết về vốn đó nên em chọn đề tài : “ Thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam, thực trạng và giải pháp”. em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn Phạm Thị Thêu, các giáo viên trong bộ môn kinh tế đầu tư và các cô chú hướng dẫn ở Vụ đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư.
89 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, sự di chuyển các nguồn lực ( K,R, Kỹ Thuật, Lao Động ....) giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng và phát triển. Sự di chuyển đó được quyết định bởi đầu tư quốc tế ( bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp ). Cùng với đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp có vai trò quan trọng. Dòng đầu tư nà
y đang vận động theo nhiều chiều, dưới nhiều hình thức và ngày càng có xu hướng tự do hóa. Đây là một tất yếu khách quan, các nước đều phải chấp nhận tính tất yếu này dù là nước phát triển hay đang phát triển. Nước nào nhận thức được nó và tạo điều kiện cho nó vận động thì nước đó sẽ phát triển lớn mạnh .
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nhân tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế. Muốn phát triển nhanh các nước cần phải lợi dụng ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường lao động ..... của nhiều nước. Song nguồn FDI trên thế giới là có hạn mà nhu cầu về nó ngày càng lớn. Nó càng trở nên bức thiết trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và phân công lao động quốc tế sâu rộng ngày nay.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế của mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển đổi này, Việt Nam cần vốn đầu tư nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý.... nhằm tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm trong nước. Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển kinh tế xã hội6
Chính vì sự cần thiết về vốn đó nên em chọn đề tài : “ Thu hút FDI Nhật Bản vào Việt Nam, thực trạng và giải pháp”. em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn Phạm Thị Thêu, các giáo viên trong bộ môn kinh tế đầu tư và các cô chú hướng dẫn ở Vụ đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư.
Chương I
Cơ sở lý luận chung về đầu tư
I. Khái niệm và vai trò của đầu tư
1. Khái niệm và vai trò của đầu tư và đầu tư phát triển
Đầu tư theo nghĩa chung nhất được hiểu là sự bỏ ra hoặc hy sinh các nguồn lực hiện tại nhằm đạt được kết quả có lợi cho người đầu tư .
Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm và nâng cao đời sống cho mọi người dân.
2. Vai trò của đầu tư phát triển .
Đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở các mặt sau :
2.1 Đầu tư vừa tác động tới tổng cung vừa tác động tới tổng cầu.
Về mặt cầu
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng Thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24 – 28 % trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0 – Q1 và giá cả của của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0 – P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 – E1.
Về mặt cung.
Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên ( đường S dịch chuyển sang S’ ). Kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1 – Q2, và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P1 – P 2 . Sản lượng tăng giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội
P
P1
P0
P2
Q0
Q1
Q2
Q
S'
S
E2
E1
E0
D’
D
2.2 Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế .
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định của nền kinh tế vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế mọi quốc gia.
Chẳng hạn khi tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng do đó sẽ kích thích tăng trưởng sản xuất phát triển, sản lượng tăng. Sản xuất được phát triển quy mô sản xuất tăng thu hút thêm nhiều lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội, thu nhập của người dân được cải thiện, đời sống ngày càng được nâng cao. Đầu tư tăng góp vốn vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý. Nhưng bên cạnh đó khi đầu tư tăng cầu các yếu tố đầu vào tăng dẫn đến giá cả các yếu tố đầu vào tăng ( giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động vật tư ) đến mức độ nào đó làm tăng lạm phát. Lạm phát làm cho sản xuất đình trệ đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày cành thấp hơn thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Trong trường hợp các nhà cung cấp hàng hoá đầu vào có xu hướng tăng lợi nhuận thông qua giá thì họ sẽ giảm đi mức sản xuất, đẩy giá lên, như vậy sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế
Khi đầu tư giảm quy mô sản xuất giảm tình trạnh thất nghiệp tăng tệ nạn xã hội tăng thu nhập của người dân thấp, cầu giảm. Đầu tư giảm tốc độ giảm cung các yếu tố đầu vào nhỏ hơn tốc độ giảm cầu gây nên sản xuất dư thừa của các yếu tố đầu vào ( thừa cơ cấu ). Tuy nhiên khi đầu tư giảm cầu giảm khiến cho giá thành giảm và lạm phát giảm điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong trường hợp lạm phát cao. Đầu tư giảm còn làm cho cung giảm do đó bản được các hàng hoá còn tồn đọng dư thừa, giá sản xuất sẽ tăng lên và lại khiến cho cung tăng lên và quy mô sản xuất được mở rộng.
Chính vì vậy trong điều hành vĩ mô nền kinh tế các hoạt động chính sách cần thấy hết các tác động hai mặt này phải xác định được các nhân tố và các kết quả của ảnh hưởng hai mặt đó để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế tác động xấu phát huy tác động tích cực, duy trì được sư ổn định của nền kinh tế.
2.3 Đầu tư tác động đến tốc độ phát triển và tăng trưởng kinh tế
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy : muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15 – 25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
ICOR = vốn đầu tư / mức tăng GDP
Từ đó suy ra:
Mức tăng GDP = vốn đầu tư / ICOR
Mức ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
ở các nước đang phát triển, ICOR thưởng lớn từ 5 – 7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 – 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Thực vậy, ở nhiều nước đầu tư đóng vai trò như một “ cái hích ban đầu” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế ( các nước NICS, các nước Đông Nam á )
2.4 Đầu tư và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước là một vấn đề được liệt vào hàng quan trọng nhất trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay. Cơ cấu kinh tế chính là tổng thể hữu quan có mối quan hệ giữa các ngành, các vùng các khu vực kinh tế, giảm thành phần kinh tế, hợp thành cơ cấu kinh tế thể hiện ở các tỷ lệ cân đối kinh tế phản ánh trạng thái cân đối nhân công lao động.
Một đất nước muốn phát triển mạnh mẽ nhất thiết phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý :
- Cơ cấu được xây dựng phải mang tính khoa học cao, phản ánh đúng đắn yêu cầu của các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật kinh tế
- Phải đón đầu các xu hướng KHKT hiện đại và phù hợp với xu hướng đó
- Phải phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tế phải là cơ cấu kinh tế mới.
- Phải đảm bảo cho phép tối ưu hoá việc sử dụng lợi thế so sánh của các nước, khai thác có hiệu quả tiềm năng vốn có của các ngành, các địa phương và các đơn vị kinh tế cơ sở.
Muốn xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn thiện phải có một sự đầu tư thoả đáng. Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật phát triển, với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn; tạo ra sự cân đối trong phạm vi của nền kinh tế.
Đầu tư và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối quan hệ mật thiết gắn bó không tách rời nhau mà tạo điều kiện cùng nhau phát triển.
2.5 Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiện quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới thành 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt Nam đang là một trong 90 nước kém phát triển nhất về công nghệ, với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
2.6 Đầu tư góp phần vào phát triển nguồn nhân lực ( NNL )
NNL là yếu tố tác động đến cả tổng cung và tổng cầu
- NNL là một yếu tố thuộc tổng cung
AS = f( K, L, T, R )
Như vậy, cả số lượng và chất lượng của nguồn lao động đều ảnh hưởng đến tổng cung. Để nâng cao năng lực sản xuất, không thể không nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
NNL cũng là một yếu tố trực tiếp tác động đến tổng cầu AD. Như chúng ta đã biết:
AD = f( C, G, I, N X )
Khi chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao thì lương tăng dẫn đến thu nhập tăng, thu nhập tăng làm cho cầu tăng, kéo theo tăng trưởng kinh tế. Mặt khác khi trình độ dân trí được nâng cao và nhu cầu hưởng thụ tăng theo tạo điều kiện kích thích tăng tổng cầu.
Bên cạnh đó, khi chúng ta tận dụng được nguồn nhân lực thì thất nghiệp giảm, thu nhập tăng, chi tiêu tăng, AD tăng, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đồng thời thu nhập tăng, thất nghiệp giảm, ta cũng giải quyết được các vấn đề xã hội, đảm bảo cho nên kinh tế phát triển bền vững.
Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hóa nền kinh tế. Việt Nam muốn phát triển kinh tế thì không thể không hội nhập. Cùng với việc hội nhập với khu vực tự do thương mại ASEAN, chương trình ưu đãi thuế quan chung cũng như gia nhập APEC và WTO Việt Nam sẽ gia nhập thị trường đầu tư, dịch vụ và lao động thế giới. Theo nhận định của nhiều chuyên gia nếu Việt Nam không nhánh tróng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì đây là một yếu tố làm suy giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trên thị trường thế giới.
Mặt khác, theo kinh nghiệm của các nước phát triển và của những nước công nghiệp mới NICS, đầu tư vào con người mang lại lợi nhuận cao nhất. Sự chăm lo đầy đủ đến con người là đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phát triển. ở Việt Nam con người luôn được nhấn mạnh là nguồn nội lực quan trọng nhất để xây dựng đất nước. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Do đó, để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động thì đầu tư đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc phát huy sức mạnh con người, một nguồn lực vô cùng quan trọng của đất nước ta là cần phải chú trọng và có sự đầu tư thoả đáng. Chỉ có đầu tư mới có thể nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và năng lực quản lý và khắc phục những yếu kém, tồn tại của thực trạng nước ta. Khi chất lượng đội ngũ lao động đã được cải thiện, thì đó là một nhân tố vô cùng quan trọng để nâng cao trình độ của nền kinh tế trong điều kiện nền kinh tế còn chậm phát triển như nước ta hiện nay. Có vậy, nền kinh tế Việt Nam mới đạt được tốc độ tăng trưởng và phát triển để bắt kịp với trình độ phát triển của thế giới trong xu hướng hội nhập quốc tế.
II. Khái niệm về vốn và vai trò của vốn đầu tư
1. Khái niệm về vốn
Để thực hiện quá trình tái sản xuất tài sản cố định ( bù đắp, khôi phục máy móc thiết bị đã hao mòn hoặc hư hỏng, xây dựng thêm công trình mới, tăng thêm máy móc thiết bị ) phải tiến hành hoạt động đầu tư thông qua vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là toàn bộ tiền tích luỹ của xã hội của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tai sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong mỗi gia đình.
Quá trình sử dụng vốn đầu tư, xét về bản chất đó là quá trình thực hiện việc chuyển vốn bằng tiền ( vốn đầu tư ) thành vốn sản xuất ( hiện vật ) để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt.
Trong nền sản xuất kinh tế quốc dân, vốn là một phần thu nhập dưới dạng tài sản vật chất và tài sản tài chính được các cá nhân và các tổ chức bỏ ra tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm các lợi ích về kinh tế và các lợi ích về xã hội .
Trong quá trình hoạt động đầu tư để mở rộng quá trình đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu nhà nước có thể tiến hành công tác đầu tư cơ bản mua sắm tài sản cố định, tạo nên cơ sở vật chất và kỹ thuật để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh tế tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Vốn cho đầu tư cơ bản là bộ phận chi phí để đạt được mục đích đầu tư nhất định, bao gồm : chí phí chuẩn bị đầu tư chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị chi phí cho giai đoạn thực hiện đầu tư các chi phí kiến thiết cơ bản khác. Vốn đầu tư cơ bản bao gồm: vốn cho ngân sách nhà nước cấp vốn của các doanh nghiệp nhà nước đầu tư, vốn tư nhân và dân cư, vốn đầu tư nước ngoài.
Qua các khái niệm trên về vốn đầu tư, vốn giải quyết các nội dung sau :
* Trạng thái mà vốn kinh doanh tham gia vào quá trình sản xuất là : tài sản vật chất ( tài sản cố định, tài sản lưu động ) và tài sản tài chính ( tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các chứng khoán ....). Điều này rất quan trọng vì nó cho thấy công cụ và đa dạng các loại vốn trong nền kinh tế.
* Vốn trong mối quan hệ với các nhân tố khác trong quá trình hoạt động đầu tư. Vấn đề này cho thấy nếu tách rời các yếu tố lao động, đất đai thì vốn không còn với tính cách là đồng vốn nữa. Điều này buộc các nhà quản lý phải xem xét quá trình sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả và kết quả cao nhất.
* Phải thể hiện được mục đích sử dụng vốn, đó là tìm các lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội mà hiệu quả sử dụng vốn mang lại. Vấn đề này sẽ định hướng đúng cho quá trình phân tích và quản lý kinh tế đối với toàn bộ nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn trở thành đối tượng mua bán và giá cả của nó ( lãi suất ) được hình thành theo quá trình cung cầu trên thị trường. Cơ chế đó làm cho quá trình vận động của vốn hết sức linh hoạt và hiệu quả góp phần thúc đẩy quá trình vận động tích tụ và tập trung vốn, tái tạo và phát triển thị trường ở nước ta vừa là quá trình có tính quy luật của nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường vừa để đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn cho qúa trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy vậy cần phải thấy rằng thị trường vốn có hoạt động an toàn và hiệu quả mới nâng cao hiệu quả chung của nền sản xuất xã hội.
2. Vai trò của vốn đầu tư
Để đảm bảo qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cần phải có các yếu tố cơ bản là : vôn, đất đai, lao động và kỹ thuất công nghệ. Hiện nay ở nước ta có nguồn lao động dồi dào, việc thiết lao động chỉ thiếu ở những ngành nghề đòi hỏi chuyên môn cao. Nhưng điều này hoàn toàn có thể khắc phục được trong một thời gian ngắn, nếu chúng ta có điều kiện để đào tạo mới và đào tạo lại. Vấn đề kỹ thuật công nghệ không phải quá khó khăn phức tạp vì chúng ta phát triển kinh tế trong điều kiện thế giới và các nước trong khu vực có một nền khoa học công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến đi trước chúng ta rất xa. Do đó, việc nhập kỹ thuật công nghệ kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới vào Việt Nam phụ thuộc vào khả năng về vốn, ngoại tệ mà chúng ta có khả năng tạo ra.
Như vậy yếu tố quan trọng hiện nay, đối với các doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung là vốn và tình hình sử dụng vốn có hiệu quả và kết quả.
Nhu cầu về vốn xét trên góc độ mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội thể hiện ở một số mặt sau:
* Đối vơi doanh nghiệp, vốn là điều kiện để đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm tăng thu nhập cho người lao động ... từ đó tạo điều kiện để đổi mới thiết bị công nghệ mở rộng sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm , tăng việc làm tăng thu nhập cho người lao động ... Từ đó tạo điều kiện để doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh trên thị trường, mở rộng xuất khẩu nâng cao hiệu quả về hoạt động sản xuất kinh doanh .
* Đối với toàn bộ nền kinh tế vốn được ví như máu trong một cơ thể sống, vốn là điều kiện để nhà nước cơ cấu lại các ngành sản xuất nâng cao cơ sở hạ tầng mở rộng đầu tư, tăng phúc lợi xã hội, mặt khác vốn là tiền đề để nhà nước thực hiện phân công lao động xã hội, thu hút đầu tư nguồn vốn nước ngoài ổn định chính sách vĩ mô, đảm bảo ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế.
Vốn đóng vai trò đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển cân đối kinh tế các vùng, lãnh thổ ngành .... Vai trò này được phát huy trên cơ sở chủ động tổ chức, sử dụng tốt đồng bộ vốn để nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh.
3. Các nguồn hình thành vốn đầu tư
3.1 Vốn huy động trong nước
Đối với các nước nghèo để phát triển kinh tế và để từ đó thoát ra khỏi cảnh đói nghèo thì đó là một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt và từ đó dẫn tới thiếu nhiều các thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ cơ sở hạ tầng.... Do đó, trong những bước đi ban đầu, để tạo ra được “cú hích đầu tiên” cho sự phát triển, để có được tích luỹ ban đầu từ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế, không thể không huy động vốn đầu tư nước ngoài. Không có một nước chậm phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở
Tuy nhiên cơ sở vật chất – kỹ thuật để có thể phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước ta lại chính là khối lượng vốn đầu tư trong nước. Tỷ lệ giữa vốn huy động được ở trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài tuỳ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế của mỗi nước. Như ở Trung Quốc, tỉ lệ này là 5 : 1, một số nước khác là 3 : 1, Việt Nam theo các nhà kinh tế thì tỉ lệ này phải là 2 :1.
Do đó xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn và không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư trong nước.
3.2 Vốn huy động từ nước ngoài
3.2.1 Viện trợ phát triển chính thức ODA
Là vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi xuất thấp, kể cả vay theo hình thức thồng thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA – viện trợ phát triển chính thức.
Hỗ trợ phát triển chính thức có đặc điểm chủ yếu sau đây:
* Vốn đầu tư này thường lớn, cho nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu p