Hiện nay trong nền kinh tế thị trường đặc biệt khi tham gia vào WTO,tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là hoạt động chính, là vấn đề tất yếu của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ được coi là mạch máu của hoạt động lưu thông hàng hóa, là khâu không thể thiếu được của quá trình sản xuất hàng hóa. Tiêu thụ hàng hóa ( bán hàng hóa ) gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, quyết định sống còn đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào theo đuổi mục tiêu lợi nhuận.
Các giao dịch mua bán hàng hóa theo đó mà diễn ra và chiếm một số lượng chủ yếu trong các giao dich dân sự. Sử dụng pháp luật là công cụ thực hiện các giao dịch dân sự , và gắn liền với các hoạt động mua bán hàng hóa là hợp đồng mua bán hàng hóa. Các hoạt động trao đổi, mua bán của các doanh nghiệp hiện nay dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều đã sử dụng hợp đồng mua bán như một công cụ hữu hiệu để thỏa thuận các điều khoản giữa các bên. Việc các bên thỏa thuận quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ngoài những thỏa thuận chung có quy định trong luật định thì còn bao gồm những thỏa thuận theo điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp. Bởi vậy việc tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy mạnh việc cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong thời đại mở cửa giao lưu buôn bán với thế giới.
Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần Việt Kim do nhận thức được vai trò to lớn của hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng trong mua bán hàng hóa mà em đã quyết định chọn để tài: “ Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần Việt Kim ” làm chuyên để thực tập tốt nghiệp.
Cấu trúc đề tài bao gồm 3 phần chính như sau:
_ Chương 1: Chế độ pháp lý chung về hợp đồng mua bán hàng hóa.
_Chương 2: Thực tiễn về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần Việt Kim.
_Chương 3: Các biện pháp nhằm khắc phục khó khăn và nâng cao hiệu quả trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty CP Việt Kim.
77 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1912 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần Việt Kim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU – SƠ ĐỒ – HÌNH VẼ
Sơ đồ 1: Bộ máy tổ chức của tổng công ty cổ phần Việt Kim
Sơ đồ 2: Bộ máy tổ chức công ty chi nhánh tại Hà Nội
Bảng 3: Báo cáo doanh thu những năm đầu đi vào hoạt động 1997 -2001
Bảng 4: Biểu đồ tăng trưởng qua các năm
Bảng 5: So sánh báo cáo tài chính năm 2008 và 2009
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
WTO : World Trade Organization: Tổ chức thương mại thế giới
Công ty CP: công ty cổ phần
LTM: Luật thương mại 2005
LDS: Luật dân sự
LLĐ: Luật lao động
BHXH: Bảo hiểm xã hội
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường đặc biệt khi tham gia vào WTO,tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là hoạt động chính, là vấn đề tất yếu của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ được coi là mạch máu của hoạt động lưu thông hàng hóa, là khâu không thể thiếu được của quá trình sản xuất hàng hóa. Tiêu thụ hàng hóa ( bán hàng hóa ) gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, quyết định sống còn đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào theo đuổi mục tiêu lợi nhuận.
Các giao dịch mua bán hàng hóa theo đó mà diễn ra và chiếm một số lượng chủ yếu trong các giao dich dân sự. Sử dụng pháp luật là công cụ thực hiện các giao dịch dân sự , và gắn liền với các hoạt động mua bán hàng hóa là hợp đồng mua bán hàng hóa. Các hoạt động trao đổi, mua bán của các doanh nghiệp hiện nay dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều đã sử dụng hợp đồng mua bán như một công cụ hữu hiệu để thỏa thuận các điều khoản giữa các bên. Việc các bên thỏa thuận quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ngoài những thỏa thuận chung có quy định trong luật định thì còn bao gồm những thỏa thuận theo điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp. Bởi vậy việc tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy mạnh việc cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong thời đại mở cửa giao lưu buôn bán với thế giới.
Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần Việt Kim do nhận thức được vai trò to lớn của hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng trong mua bán hàng hóa mà em đã quyết định chọn để tài: “ Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần Việt Kim ” làm chuyên để thực tập tốt nghiệp.
Cấu trúc đề tài bao gồm 3 phần chính như sau:
_ Chương 1: Chế độ pháp lý chung về hợp đồng mua bán hàng hóa.
_Chương 2: Thực tiễn về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần Việt Kim.
_Chương 3: Các biện pháp nhằm khắc phục khó khăn và nâng cao hiệu quả trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty CP Việt Kim.
Do thời gian được tìm hiểu về công ty chưa nhiều, vốn kiến thức còn những hạn chế nhất định,nên trong quá trình thực hiện chuyên đề không tránh sẽ xảy ra những thiếu xót. Em mong nhận được những đóng góp từ phía các thầy cô, cán bộ nhân viên từ phía công ty Việt Kim để giúp cho chuyên đề của em được ngày càng hoàn thiện hơn.
Đồng thời em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến những người đã giúp em hoàn thành tốt đề tài này. Em xin được cảm ơn cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Thuỷ _ Trường Đại học KTQD, anh Vũ Ngọc Sơn và chị Phạm Thị Duyên là nhân viên công ty cổ phần Việt Kim là những người đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG 1: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
I_ Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa
1_ Khái niệm
Hiện nay hợp đồng mua bán hàng hóa là loại hợp đồng thông dụng của hợp đồng dân sự, chiếm một số lượng lớn. Tại điều 388 Luật dân sự có nêu khái niệm chung về hợp đồng dân sự: Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Đối với hoạt động mua bán hay hợp đồng mua bán hàng hóa cũng là sự xác lập, thay đổi quyền sở hữu đối với tài sản. Mua bán hàng hóa tức là sự thỏa thuận giữu hai bên trong đó bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa cho bên mua đồng thời bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán. Các điều khoản có liên quan đến nội dung hợp đồng hay cách thức thực hiện hợp đồng đều sẽ do 2 bên tự thỏa thuận với nhau để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên. Điều này có được quy định trong điều 428 Luật dân sự như sau: hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài,ta sẽ xem xét hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các tố chức cá nhân có đăng ký kinh doanh mà quan hệ với nhau vì mục đích lợi nhuận. Theo khoản 8 điều 3 Luật TM 2005 có quy định: hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Như vậy về khái niệm chung không có gì khác so với hợp đồng dân sự hay hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường. Trong luật TM không có nêu khái niệm về hợp đồng thương mại mà chỉ có hoạt động thương mại, trong đó mua bán hàng hóa là một hoạt động thương mại. Các hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận, và đây là điểm khác biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng trong hoạt động thương mại. Khi so sánh giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng mua bán hàng hóa theo tính chất hợp đồng thì hợp đồng dân sự có tính chất dân sự còn hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất thương mại. Hợp đông mua bán được giao kết bởi các thương nhân và mục đích giao kết hợp đồng là để sinh lợi giữa các bên, đó gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất thương mại. Như vậy, các hợp đồng được giao kết không nhằm mục đích lợi nhuận là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất dân sự.
Trong hoạt động tại các doanh nghiệp, việc giao kết và thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa là khâu cơ bản. Sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp phụ thuộc vào quá trình này. Hợp đông mua bán hàng hóa tạo điều kiện pháp lý cho các chủ thể kinh doanh có điều kiện phát triển các hoạt động tiêu dùng, sản xuất và lưu thông hàng hóa. Các doanh nghiệp trong môi trường kinh tế, tạo ra các mối quan hệ giữa người mua và người bán đi kèm với quyền lới và nghĩa vụ được pháp luật bảo hộ, tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp nền kinh tế ngày một phát triển và có sức cạnh tranh với thị trường quốc tế.
2_ Đặc điểm
2.1_ Chủ thể
Chủ thể của các hoạt động thương mại nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân. Tại điều 6 Luật TM có quy định : thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các nghành nghề mà đã đăng ký trong giấy phép đăng ký kinh doanh đông thời là những ngành nghề không bị pháp luật cấm. Quyền hoạt động thương mại hơp pháp của thương nhân được Nhà nước bảo hộ. Tuy nhiên trong quá trình mua bán hàng hóa, các bên chủ thể không nhất thiết đều phải là các thương nhân, đó có thể là các cá nhân, các tổ chức khác ….mà thỏa mãn điều kiện có đăng ký kinh doanh,quan hệ với nhau vì mục đích lợi nhuận. Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ngoài lãnh thổ. Vì vậy chủ thể là các thương nhân Việt Nam thì còn thương nhân nước ngoài.
2.2_Hình thức
Tại điều 24 Luật TM có quy định về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa : hợp đồng MBHH được thể hiện bằng lời nói,bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng MBHH mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Chủ yếu các hợp đồng trong hoạt động thương mại,hợp đồng mua bán hàng hóa được lập thành văn bản. Trước hết là do việc giao kết hợp đồng bằng văn bản mang tính đảm bảo cao hơn so với các hình thức khác. Hơn nữa hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra nhằm mục đích lợi nhuận nên việc ký kết hợp đồng phải được giao kết bằng văn bản. Trong luật TM cũng quy định hình thức hợp đồng được lập bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương với văn bản. Các hình thức có giả trị tương đương văn bản bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
2.3_ Đối tượng
Đối tượng chủ yếu trong hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa được phép giao dịch, không nằm trong đối tượng hàng hóa bị cấm không được phép giao dịch. Luật TM có quy định hàng hóa bao gồm: tất cả các loại động sản,kể cả động sản hình thành trong tương lai hay những vật gắn liền với đất đai. Đây là những khái niệm nói chung về đối tượng trong mua bán hàng hóa. Hàng hóa là sản phẩm do lao động của con người tạo ra, việc trao đổi hàng hóa là quá trình tất yếu của phát triển. Hàng hóa bao gồm nhiều loại, nó được tạo ra ngày càng nhiều nhằm thỏa mãn cho nhu cầu tiêu dùng của con người. Đó có thể vật hữu hình hay vô hình, động sản hay bất động sản….đều là những đối tượng của hợp đông mua bán hàng hóa. Mỗi đối tương đều có những hình thức để trao đổi khác nhau, nhưng tựu chung vẫn phải tuân theo những nguyên tắc chung trong hoạt động mua bán hàng hóa.
2.4_Nội dung
Nội dung của hợp đông mua bán hàng hóa thể hiện ý chí của các bên trong việc bảo vệ quyền lợi lợi ích của chính mình đồng thời cũng phải tuân theo các nguyên tắc trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng. Tùy theo từng loại hợp đồng , các bên có thể thỏa thuận về những nội dung khác nhau. Trong hợp đông thông thường có nêu rõ quyền và nghĩa vụ do các bên thỏa thuận. Ngoài những thỏa thuận trong hợp đồng, những thỏa thuận thường có trong tất cả các hợp đồng thì có những thỏa thuận khác phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp. Đó có thể là những thỏa thuận bên ngoài, không được ghi trong hợp đồng hoặc những tiền lệ đã có từ trước đã có giữa các bên. Trong quy định của luật dân sự và luật thương mại có quy đinh các nội dung chủ yếu như sau :
2.4.1_ Đối tượng của hợp đồng
Là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải được xác định rõ trong hợp đồng tranh xảy ra những sai sót dẫn đến tranh chấp giữa các bên. Mặc dù ngay từ đầu xác định giao kết hợp đồng, bên mua vốn đã biết trước nhu cầu của mình với hàng hóa rồi mới tìm đến các bên đối tác,hoặc bên bán có những hằng hóa như thế nào khi xác định đề nghị giao kết chào hàng.
2.4.2_ Số lượng, chất lượng
Những quy định về vấn đề này được ghi trong hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên. Quy định chất lượng hàng hóa nhằm phân biệt giữa các chủng loại khác nhau, mẫu mã, tránh việc nhầm lẫn có thể xảy ra. Các bên có thể thoả thuận về số lượng nhất định hàng hoá cụ thể mà bên bán phải giao. Và nghĩa vụ của bên bán là phải giao đủ số lượng hàng hóa đã quy đinh trong hợp đồng. Khi bên bán không giao đủ số lượng như đã thỏa thuận thì có thể dựa vào những điều khoản đã quy đinh trong hợp đồng để đảm bảo lợi ích của mình.
2.4.3_ Giá, phương thức thanh toán
Đây là nghĩa vụ của bên mua đối vơi bên bán khi đã giao hàng hóa đạt yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng. Gía cả ngoài đơn giá, bảng giá chung thì các bên có thể thỏa thuận mức giá hợp lý cho cả hai bên, đồng thời phương thức thanh toán. Việc thanh toán có thể diễn ra băng nhiều cách, nhưng chủ yếu hiện nay là thông qua tài khoản gửi tại ngân hàng. Thanh toán có thể thanh toán 1 lần vào cuối khi đã giao toàn bộ hàng hóa cho bên mua, cũng có thể thanh toán theo từng lần nhận hàng nếu số lượng hàng hóa lớn, và hợp đồng được thực hiện trong một thời gian nhất định.
2.4.4_ Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng
Đến thời hạn giao hàng thỏa thuận trong hợp đồng, tại nơi giao hàng bên bán phải giao hàng cho bên mua đủ số lượng và đảm bảo chất lượng, bên mua có nghĩa vụ có mặt để nhận hàng . Địa điểm giao hàng có thể là kho của bên mua, cũng có thể là nơi mà hai bên đã thỏa thuận từ trước.
3_ Nguồn luật điều chỉnh
3.1.Qúa trình phát triển của pháp luật hợp đồng
3.1.1. Pháp luật hợp đồng trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Trong thời kỳ hòa bình được lập lại năm 1954, Miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Đứng trước những khó khăn ban đầu là những thiệt hại do chiến tranh gây ra, nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu thì mục tiêu trước hết của Đảng và Nhà Nước khôi phục lại cuộc sống ổn định cho nhân dân trước sau đó phát triển kinh tế sau. Trên định hướng đó năm 1956 Nhà nước đã ban hành điều lệ tạm thời số 735/TTg về chế độ hợp đồng đăng ký kinh doanh (đăng trên công báo số 10 ngày 5/5/1956). Văn bản này có tên gọi là “Hợp đồng kinh doanh” để điều chỉnh quan hệ giữa hai hay nhiều chủ thể cam kết tự nguyện thực hiện kế hoạch của Nhà nước nhằm phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong thời kỳ này, các doanh nghiệp đa phần là các doanh nghiệp nhà nước, việc hoạt động và thực hiện đều theo những chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho. Nhằm phục vụ cho việc thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu ấy Nhà nước trên cơ sở ban hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật.
- Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 04/TTg ngày 4/1/1960 ra đời nhằm qui định một kiểu hợp đồng mới, hợp đồng được kí kết trên cơ sở kế hoạch của Nhà nuớc và nhằm thực hiện kế hoạch của Nhà nước đồng thời thực hiện các nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh tế.
- Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54/CP của Hội đồng chính phủ ngày 10/3/1975 đánh dấu một bước phát triển mới, có thể nói đây là bản điều lệ chính thức đầu tiên về chế độ hợp đồng kinh tế của nước ta và nó có hiệu lực thi hành đến năm 1989. Để thực hiện nghị định này nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản thực hiện hợp đồng kinh tế như: Quyết định số 113/TTg ngày 11/9/1965 và Chỉ thị 17/TTg ngày 20/1/1967 của Thủ tướng chính phủ…
3.1.2.Pháp luật trong thời buổi kinh tế thị trường
Cùng với xu hướng chung của nền kinh tế cả nước và trên thế giới, nếu trong thời kỳ bao cấp chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước thì đến giai đoạn này việc mở ra các các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng phát triển. Khi nền kinh tế bao cấp ban đầu trở nên lạc hậu, các doanh nghiệp làm theo chỉ tiêu của nhà nước trở nên lỗi thời không còn phù hợp với thời kỳ mới. Trước thực tế này mà tháng 12/1986, Đại hội VI của Đảng đã quyết định đổi mới một cách toàn diện, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Đại hội đã quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó ngày 25/9/1989 Nghị định số 17/HĐBT, Quyết định số 18/HĐBT cùng với các văn bản hướng dẫn được Hội đồng Nhà nước thông qua. Luật DS được ban hành ngày 28/10/1995, tiếp theo ngày 10/5/1997 Luật TM được Quốc Hội thông qua quy định về hợp đồng trong một số hành vi thương mại. Tuy nhiên thực tế cho thấy các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại thì pháp lệnh hợp đồng kinh tế vẫn là căn cứ chính. Dẫn đến tình trạng các quy định chồng chéo gây nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng, nội dung của các văn bản có nhiều điểm không thống nhất.
Ngay khi đưa vào thực tiễn áp dụng, luật đã lộ rõ ra những điểm yếu. Hơn nữa trong giai đoan Việt Nam gia nhập là thành viên của WTO, pháp luật cần có những thay đổi theo những quy định mà WTO đề ra. Nên đến 14/6/2005 Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự trong đó đã thống nhất điều chỉnh các mối quan hệ về hợp đồng nói chung, bên cạnh các văn bản pháp luật riêng đối với từng lĩnh vưc. Luật TM và các văn bản pháp luật có liên quan điều chỉnh đã được ra đời.
3.2. Nguồn luật điều chỉnh
- Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thực hiện ngày 01/01/2006 là nguồn luật chung điều chỉnh hợp đồng. Đây là luật chung điều chỉnh, nêu nguyên tắc áp dụng chung về chủ thể, giao dich dân sự, nghĩa vụ dân sự được áp dụng các quan hệ hợp đồng dân sự (nghĩa hẹp) ,hợp đồng kinh doanh thương mại ...Trên cơ sở những quy định áp dụng chung thì có luật áp dụng riêng đối với từng lĩnh vực Luật TM, Luật LĐ.
- Luật thương mại thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thực hiện ngày 01/01/2006 được dùng cho các quan hệ hợp đồng trong hoạt động thương mại. Với hợp đồng mua bán hàng hóa,Luật TM đóng vai trò là luật riêng áp dụng, Luật dân sự là luật chung áp dụng. Trình tự áp dụng luật được tuân theo quy đinh chung, áp dụng luật riêng trước,nếu không có những quy định có liên quan thì sẽ áp dụng đến Luật chung tức là Luật DS.
- Các văn bản khác có liên quan: hợp đồng thì được giao kết và thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau,vì vậy mỗi một lĩnh vực lại có luật chuyên ngành áp dụng như có thể liệt kê một số luật như: Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Luật đấu thầu 2005, Luật chứng khoán 2006....
II_ Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
1_ Chế độ pháp lý về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1_ Nguyên tắc
Việc giao kết hợp đồng thể hiện ý chí của 2 bên, việc giao kết là quyền tự do của các bên, nhưng vẫn cần tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo sự công bằng, cũng như sự điều chỉnh của pháp luật. Nguyên tắc được quy định từ điều 10 đến điều 15 tại Luật TM.
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các thương nhân trong hoạt động thương mại. Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại ( điều 10_ Luật TM )
Nguyên tắc tự do,tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong quy định về chủ thể giao kêt trong hợp đồng mua bán đó là các doanh nhân,hoặc các tổ chức, cá nhân có giấy pháp kinh doanh…nguyên tắc này nhắm giúp cho các chủ thể khi tham gia giao kết thể hiện ý muốn của mình và bảo vệ lợi ích của bản thân.Đi kèm với nguyên tắc tự do giao kết, tự do thỏa thuận nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trước hết là với các doanh nghiệp, các thương nhân khi tham gia giao kết cần phải đảm bảo có tư cách hợp pháp trước pháp luật,chịu trách nhiệm về bản thân mình trước đối tác và trước pháp luật. Việc giao kết không được trái pháp luật hay đạo đức xã hội, như việc giao dịch hang hóa bị pháp luật cấm…thì đều vi phạm nguyên tắc này. Lợi ích của cá nhân được đảm bảo đồng thời không làm xâm hại đến lợi ích của tập thể, của xã hội. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt,cưỡng ép,đe dọa,ngăn cản bên nào.
Nguyên tắc thứ ba là nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không được trái với quy định của pháp luật.
Các nguyên tắc tiếp theo là nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại. Tại điều 13_ Luật TM có quy định : trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thỏa thuận và không có thói quen đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên tắc quy định trong Luật TM và trong Bộ luật dân sự. Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.
1.2_ Trình tự giao kết hợp đồng
1.2.1_ Đề nghị giao kết hợp đồng
Theo khoản 1 điều 390 Luật dân sự có xác định: đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã xác định cụ thể. Đây là việc thể hiện ý chí của một bên mong muốn giao kết hợp đồng với chủ thể khác với những điều kiện mà phía bên chủ thể chủ động đề nghị đưa ra. Như vậy xét về mặt bản chất đây cũng có thể coi là là một lời chào hàng như trong thương mại. Nó mang có hiệu lực pháp luật nếu bên được đề nghị chấp nhận lời đề nghị. Trong lời đề nghị giao kết phải có những nội dung cơ bản cũng như những thông tin giống như trong nội dung hợp đồng nhằm đảm bảo bên được đè nghị có những thông tin cần thiết. Dù không có quy định cụ thể vầ nội dung của đơn chào hàng nhưng cũng có những nội dủng chủ