Lịch sử phát triển kinh tế của một quốc gia bao giờ cũng gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng. Một nền kinh tế ngày càng phát triển thì đòi hỏi sự tồn tại của các Ngân hàng thương mại cổ phần để đáp ứng các nhu cầu về vốn của xã hội là một điều tất yếu không thể thiếu và có tác động rất lớn đến tiến trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Sự ra đời của hàng loạt các Ngân hàng thương mại cổ phần trong thời gian qua ở nước ta là một minh chứng. Các Ngân hàng thương mại cổ phần bằng các chức năng và hoạt động của mình đã đáp ứng kịp thời các nhu cầu về vốn cho các tổ chức kinh tế và cá nhân. Và như vậy, hoạt động tín dụng đã trở thành hoạt động chủ yếu của hầu hết các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Nguồn lợi từ các hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng rất lớn trong thu nhập Ngân hàng, nhất là các Ngân hàng thương mại.
Thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng tiến hành các hoạt động khác nhằm thực hiện các chức năng của mình trong nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, các Ngân hàng phải hoạt động trong sự cạnh tranh gay gắt thì hiệu quả hoạt động tín dụng đã và đang trở thành một vấn đề hết sức quan trọng.
Thực tế cho thấy rằng, hoạt động kinh doanh nào mang lại lợi nhuận càng cao thì đồng nghĩa với vấn đề rủi ro của hoạt động mang lại càng lớn. Trong hoạt động Ngân hàng cũng vậy, hoạt động tín dụng là một hoạt động kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro nhất và nếu rủi ro tín dụng xảy ra càng lớn thì ảnh hưởng của nó đến hoạt động càng nghiêm trọng. Hiện nay, hành lang pháp lý ở Việt Nam vẫn chưa thật sự minh bạch và ổn định, các thể chế nhiều khi còn mâu thuẫn với nhau, cộng thêm vào đó là tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh. vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro thì việc cho vay của Ngân hàng càng khó khăn hơn. Đồng thời, tiêu chí cho vay đầu tiên hiện nay ở Ngân hàng là phải có tài sản cầm cố, thế chấp bởi vì nếu cho vay mà không có bảo đảm tài sản thì khả năng thu hồi nợ là rất thấp. Do đó, để cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng có hiệu quả, mở rộng và phát triển hơn nữa trong tương lai đồng thời giảm thiểu những nguy cơ rủi ro thì việc cấp tín dụng có tài sản bảo đảm là yếu tố bắt buộc phải có vì bảo đảm tín dụng làm cho người đi vay quan tâm hơn trong vấn đề trả nợ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đi vay hơn.
Hiện nay thực trạng vốn tín dụng của các Ngân hàng thương mại tồn đọng trong tài sản bảo đảm tiền vay ngày càng nhiều, vì thế việc xử lý nợ quá hạn thông qua tài sản thế chấp bằng cách nào nhanh nhất, hiệu quả nhất, có lợi cho Ngân hàng và xã hội là vấn đề đang ngày càng trở nên cấp thiết trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Giải quyết được vấn đề này không những giải quyết được tình trạng ứ đọng vốn của Ngân hàng mà còn giúp lượng tiền lưu thông mạnh hơn trong nền kinh tế nhằm thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế nói chung cũng như của hệ thống Ngân hàng nói riêng.
Chính vì những suy nghĩ đó, em đã chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của mình: “THỰC TRẠNG CẤP TÍN DỤNG CÓ TÀI SẢN BẢO ĐẢM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM TÍN DỤNG TẠI SACOMBANK” với mục đích tìm ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ở Sacombank.
Nội dung chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Giới thiệu khái quát về Sacombank
Chương 2: Thực trạng cấp tín dụng có tài sản bảo đảm tại Sacombank
Chương 3: Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tín dụng tại Sacombank
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu trong thời gian thực tập tại Ngân hàng, song do trình độ và khả năng hiểu biết có hạn, kinh nghiệm về thực tiễn chưa có mà hoạt động tín dụng của Ngân hàng lại rất phong phú và phức tạp nên những nội dung được trình bày trong chuyên đề này không thể tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của thầy Nguyễn Quốc Anh và các anh chị làm việc trong Phòng Thẩm Định, Hội sở Sacombank.
Em xin chân thành cảm ơn!
44 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1646 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng cấp tín dụng có tài sản bảo đảm và một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tín dụng tại Sacombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CẤP TÍN DỤNG CÓ TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TẠI SACOMBANK
2.1 Lý luận chung về bảo đảm tín dụng:
2.1.1 Khái niệm về cho vay có tài sản bảo đảm:
Bảo đảm tín dụng là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Có thể hiểu bảo đảm tín dụng (hay còn gọi là bảo đảm tiền vay) là việc bảo vệ quyền lợi của người cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Cho vay có tài sản bảo đảm là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, ký quỹ, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hay bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
2.1.2 Sự cần thiết của việc thực hiện bảo đảm tiền vay:
Thông thường ở các Ngân hàng, nguồn thu nợ chủ yếu là từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập của người đi vay. Cụ thể: đối với những khoản vay lưu động thì nguồn thu nợ chủ yếu từ doanh thu; đối với các khoản cho vay trung và dài hạn thì nguồn thu nợ chủ yếu là từ khấu hao cơ bản tài sản cố định và lợi nhuận; đối với các khoản cho vay tiêu dùng thì nguồn thu nợ là từ khoản thu nhập thường xuyên hay đột xuất của cá nhân... Các nguồn thu nợ này được gọi là nguồn thu nợ thứ nhất.
Tuy nhiên, trong thực tế dễ nhận thấy là những nguồn thu nợ thứ nhất này không hoàn toàn bảo đảm cho việc thu hồi các khoản nợ trong trường hợp người đi vay bị phá sản hoặc không có khả năng hoàn trả vốn vay, do đó để tránh được những tổn thất tài chính trong cho vay khi người đi vay gặp rủi ro, các Ngân hàng thương mại cần phải thiết lập những cơ sở pháp lý để có thêm nguồn thu nợ thứ hai thông qua các hình thức bảo đảm tín dụng, tạo điều kiện cho các Ngân hàng có khả năng thu hồi đầy đủ các khoản tín dụng đã cho vay. Trong thực tế hiện nay, hầu hết các Ngân hàng để tránh rủi ro cho mình, họ đã thiết lập một hệ thống chấm điểm khách hàng. Nếu khách hàng được xếp hạng cao thì Ngân hàng có thể cho vay mà không có tài sản bảo đảm. Ngược lại để tránh rủi ro, Ngân hàng thường áp dụng hình thức bảo đảm tín dụng khi cho vay. Nó có tác dụng giúp giảm bớt tổn thất cho Ngân hàng và làm động lực thúc đẩy khách hàng trả nợ.
Với hình thức bảo đảm tín dụng Ngân hàng có niềm tin là các khoản vốn vay của khách hàng sẽ có một nguồn vốn khác để hoàn trả cho Ngân hàng. Mặc dù hoàn trả tín dụng không phải là mục đích kinh doanh của Ngân hàng nhưng nó là cơ sở quan trọng nhất để thực hiện các mục tiêu kinh doanh. Để bảo đảm thu hồi được nợ, Ngân hàng phải xem xét một cách thận trọng đến uy tín và năng lực của khách hàng. Nếu khách hàng được đánh giá là tốt thì Ngân hàng có thể cho vay không có bảo đảm và ngược lại Ngân hàng cho vay phải có bảo đảm để hạn chế rủi ro. Thực tế hiện nay ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam, việc cho vay tín chấp chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng mức cho vay của Ngân hàng, điều này có thể được lý giải một phần là do những Ngân hàng chưa chú trọng đến hình thức cho vay này bởi tín chấp tuy có rủi ro cao hơn nhưng nếu thành công thì nó sẽ tạo được niềm tin nhiều hơn nơi khách hàng. Nghĩa là khách hàng sẽ trở lại sử dụng dịch vụ lần sau nhiều hơn.
Khi đánh giá hoạt động của khách hàng nếu Ngân hàng thấy nguồn thu nợ chính chưa có cơ sở vững chắc thì buộc Ngân hàng phải thiết lập các cơ sở pháp lý để có thêm nguồn thu nợ thứ hai. Nguồn thu nợ này chủ yếu là bao gồm giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba hay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp vì thế mọi dự đoán rủi ro của Ngân hàng đều mang tính chất tương đối, do đó bảo đảm tín dụng chính là việc bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh.
Các đặc trưng của bảo đảm tín dụng:
Giá trị bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm. Giá trị bảo đảm bao gồm vốn gốc, lãi (kể cả lãi quá hạn) và các chi phí khác trừ trường hợp các bên có thoả thuận lãi và các loại phí thuộc phạm vi bảo đảm được thực hiện nghĩa vụ.
Tài sản bảo đảm phải có thị trường tiêu thụ nó. Tất nhiên là tài sản bảo đảm phải được tiêu thụ dễ dàng trong thị trường đó.
Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử lý tài sản.
Các hình thức bảo đảm tiền vay:
a. Thế chấp tài sản:
Thế chấp tài sản là việc bên đi vay dùng tài sản thuộc sở hữu của mình là bất động sản hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay.
Theo quy định của luật dân sự và luật đất đai thì có 2 loại thế chấp là: bất động sản và giá trị quyền sử dụng đất.
Bất động sản là tài sản không di dời được như nhà cửa, các cơ sở sản xuất kinh doanh như nhà máy, khách sạn, cửa hàng, nhà kho... và các tài sản khác gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng. Ngoài ra còn bao gồm cả hoa lợi, lợi tức, khoản tiền bảo hiểm và các quyền phát sinh từ bất động sản thế chấp. Tất cả các động sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp và cá nhân đều được thế chấp để vay vốn. Riêng đối với doanh nghiệp nhà nước khi thế chấp toàn bộ dây chuyền công nghệ chính phải được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản.
Lưu ý rằng đất đai là bất động sản thuộc sỡ hữu toàn dân vì vậy chỉ thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Nhà nước thực hiện việc giao đất hoặc cho thuê đất đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, xã hội sử dụng ổn định, lâu dài. Các chủ thể được giao đất và cho thuê đất nói trên, chí có cá nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế mới được thế chấp vay vốn Ngân hàng. Cần lưu ý những trường hợp mà chỉ được thế chấp tài sản sở hữu gắn liền với quyền sử dụng đất. Và trường hợp được phép thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đương nhiên được phép thế chấp tài sản sở hữu gắn liền với đất.
b. Cầm cố tài sản:
Cầm cố tài sản là việc bên đi vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình tiến hành giao tài sản là động sản thuộc sở hữu cảu mình cho bên cho vay.
Như vậy, sự khác biệt giữa cầm cố và thế chấp là ở tài sản bảo đảm.
Tài sản cầm cố là động sản bao gồm:
Tài sản thực như xe cộ, máy móc, hàng hóa, vàng, tàu biển, máy bay, các loại khác.
Tiền gồm tiền mặt, tiền trên tài khoản.
Giấy tờ có giá như: cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu...
Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác.
Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố.
Căn cứ vào tính chất quản lý, tài sản cầm cố được chia làm: có đăng ký quyền sở hữu và không đăng ký quyền sở hữu. Đối với tài sản không có đăng ký quyền sở hữu thì tài sản cầm cố phải được chuyển giao cho bên cho vay. Còn đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể do bên vay, đi vay hay bên thứ ba nắm giữ theo thỏa thuận giữa bên cho vay và bên đi vay.
c. Bảo lãnh:
Bảo lãnh là việc bên thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay (người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay (người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ.
Bảo lãnh có thể bằng tài sản hoặc bằng uy tín. Việc bảo lãnh bằng tài sản có thể kèm theo biện pháp thế chấp, cầm cố hoặc là không. Đây là hình thức bảo lãnh kép, nhằm đề phòng khi người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thì Ngân hàng có thể xử lý tài sản kèm theo bảo lãnh.
Theo quy định của pháp luật thì bên bảo lãnh không phải là tổ chức tín dụng thì chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình.
Bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Người bảo lãnh có thể bảo lãnh một phần hay toàn bộ số nợ phải thanh toán cho Ngân hàng. Trong trường hợp bảo lãnh một phần thì phải ghi rõ số tiền bảo lãnh. Những trường hợp pháp luật quy định cho vay phải có bảo đảm tài sản thì chỉ áp dụng bảo lãnh một phần, trong trường hợp phần còn lại phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, nếu không bắt buộc phải có bảo lãnh toàn bộ.
Bảo lãnh riêng biệt và bảo lãnh duy trì. Bảo lãnh riêng biệt được áp dụng cho một số tiền vay cụ thể theo hợp đồng tín dụng và được hạch toán riêng trên tài khoản cho vay. Bảo lãnh duy trì là hành vi bảo lãnh cho một loạt các giao dịch và mức bảo lãnh theo hạn mức tối đa. Phương thức bảo lãnh này được áp dụng khi cho vay bằng kỹ thuật thấu chi trên tài khoản vãng lai.
Bảo lãnh bằng tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội chỉ áp dụng đối với người được bảo lãnh là các cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền nhỏ tại các tổ chức tín dụng.
2.1.3 Các biện pháp bảo đảm tiền vay:
Bảo đảm tín dụng được coi là tiêu chuẩn khi xét duyệt cho vay nhưng phải nhận thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất. Trong cho vay, bảo đảm tiền vay là nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro, không phải là yếu tố chính trong việc ra quyết định cho vay. Bảo đảm tín dụng được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nhìn chung được chia thành các loại sau:
2.1.3.1 Trường hợp có bảo đảm bằng tài sản:
Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
2.1.3.2 Trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản:
Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
Tổ chức tín dụng nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ
Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội.
2.1.4 Một số nguyên tắc bảo đảm tiền vay đang được áp dụng hiện nay:
Hiện nay, các nguyên tắc bảo đảm tiền vay được NHNN và Chính phủ quy định khá cụ thể như sau:
Theo điều 4 Nghị định số 178/1999NĐ/CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng, nguyên tắc bảo đảm tiền vay nêu rõ:
Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm theo quy định của Nghị định này và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín dụng nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được Chính phủ xử lý.
Khách hàng vay được tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, tổ chức tín dụng phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng, thì tổ chức tín dụng có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
Tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của Nghị định này và quy định của pháp luật có liên quan để thu hồi nợ khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
Theo điều 6 Nghị định số 178/1999NĐ/CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng và Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP, nguyên tắc bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba nêu rõ:
Khách hàng vay phải cầm cố, thế chấp tài sản hoặc phải được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng, trừ trường hợp khách hàng vay được tổ chức tín dụng cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay hoặc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo quy định của Nghị định 178/1999/NĐ-CP.
Tổ chức tín dụng và khách hàng vay thỏa thuận lựa chọn áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Tổ chức tín dụng có quyền quyết định lựa chọn tài sản đủ điều kiện để làm bảo đảm tiền vay; quyết định lựa chọn bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản cho khách hàng vay. Trường hợp tổ chức tín dụng quyết định lựa chọn bên bảo lãnh bằng tài sản cho khách hàng vay là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, thì việc thực hiện bảo lãnh phải tuân theo các quy định của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ, Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Bên bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình; tài sản là giá trị quyền sử dụng đất; tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng đối với bên bảo lãnh là doanh nghiệp nhà nước. Tổ chức tín dụng và bên bảo lãnh thỏa thuận về việc áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Bên bảo lãnh là tổ chức tín dụng thì thực hiện bảo lãnh theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đó đủ điều kiện làm bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật, thì việc thế chấp, bảo lãnh đồng thời cả giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hay tách rời là do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên thỏa thuận thế chấp, bảo lãnh tách rời giữa tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất, thì tổ chức tín dụng nhận thế chấp, bảo lãnh phải có khả năng quản lý tài sản trong quá trình cho vay và xử lý được tài sản đó để thu hồi nợ, nếu khách hàng vay không trả được nợ.
Trường hợp giao dịch bảo đảm tiền vay bị coi là vô hiệu từng phần hay toàn bộ, thì không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng mà giao dịch bảo đảm đó là một điều kiện.
Tóm lại: Từ những cơ sở lý luận về tín dụng nêu trên, chúng ta thấy rằng bảo đảm tín dụng được coi là tiêu chuẩn khi xét duyệt cho vay nhưng phải thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất, nó chỉ là một điều kiện “Cần”, nhằm mục đích thiết lập cơ sở pháp lý cho nguồn thu nợ thứ hai khi Ngân hàng thương mại vì lý do nào đó bị mất đi nguồn thu nợ chủ yếu là thu nhập trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. Vì vậy tài sản bảo đảm tiền vay không phải là điều kiện tiên quyết mà chính năng lực sinh lời của khách hàng mới là cơ sở cho các quyết định cho vay hay không cho vay của Ngân hàng.
2.2 Thực trạng cấp tín dụng có tài sản bảo đảm tại Sacombank thời gian qua:
Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng tài sản của Ngân hàng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến thành công hay thất bại của Ngân hàng. Mặt khác, hoạt động tín dụng lại chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp từ những thay đổi trong chính sách, chủ trương của nhà nước. Vì vậy quy trình tín dụng khoa học, chặt chẽ, phù hợp với quy định của Sacombank cũng như Ngân hàng nhà nước luôn được đặt lên hàng đầu.
Trong cho vay, Ngân hàng luôn tuân thủ theo các Nghị định, nguyên tắc của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước một cách chặt chẽ như: Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999, Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002, Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999, Thông tư số 07/2003/TT-NHNN ngày 19/05/2003.
2.2.1 Một số quy định về cấp tín dụng có tài sản bảo đảm tại Sacombank:
2.2.1.1 Điều kiện cấp tín dụng:
Khách hàng muốn được Ngân hàng xem xét cấp tín dụng phải hội đủ các điều kiện theo quy định của Ngân hàng, cũng như có thể cung cấp cho Ngân hàng một số thông tin tối thiểu và không thuộc diện không được cấp tín dụng theo quy định của Ngân hàng. Thông thường khách hàng muốn được xem xét cho vay phải hội đủ các điều kiện sau đây:
a. Có năng lực pháp luật dân sự, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp;
c. Có khả năng tài chính bảo đảm trả nợ trong thời hạn cam kết;
d. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu quả hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật và có kế hoạch vay vốn, trả nợ;
e. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Các trường hợp cấp tín dụng không có tài sản bảo đảm có quy định riêng;
f. Một số điều kiện khác tuỳ theo loại cho vay được quy định cụ thể tại các hướng dẫn.
2.2.1.2 Quy định về thông tin tối thiểu cung cấp cho Ngân hàng:
Theo quy định của Sacombank, ngoài các hồ sơ pháp lý theo quy định, các thông tin tối thiểu mà khách hàng phải cung cấp cho Ngân hàng khi đề nghị vay vốn gồm:
a. Đối với doanh nghiệp:
i. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp;
ii. Kinh nghiệm của người quản lý doanh nghiệp;
iii. Bộ máy tổ chức;
iv. Công tác hoạch định chiến lược phát triển;
v. Hệ thống hạch toán kế toán;
vi. Kết quả kinh doanh, mức tăng trưởng doanh số trong 3 năm liền kề hoặc trong thời gian kể từ khi bắt đầu hoạt động (nếu chưa đủ 3 năm);
vii. Thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá;
viii. Cơ cấu hàng tồn kho hiện tại;
ix. Tìnhh hình bảo hiểm hoả hoạn tài sản của doanh nghiệp;
x. Tình hình khai thuế và nộp thuế;
xi. Tình hình chi trả thu nhập cho người lao động;
xii. Mức độ ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đến môi trường.
b. Đối với cá nhân vay sản xuất kinh doanh:
i. Mục đích khoản vay;
ii. Thời gian và lĩnh vực kinh doanh;
iii. Số lượng nhân viên;
iv. Tổng tài sản;
v. Tài sản bảo đảm;
vi. Thời gian quan hệ với Ngân hàng;
vii. Tình trạng chỗ ở;
viii. Độ tuổi, tình trạng hôn nhân, số người phụ thuộc kinh tế.
c. Đối với các nhân vay tiêu dùng:
i. Mục đích khoản vay;
ii. Tình trạng chỗ ở, thời gian cư ngụ;
iii. Độ tuổi, tình trạng hôn nhân, số người ăn theo;
iv. Trình độ học vấn, công việc đang làm, thời gian làm việc;
v. Thu nhập dùng để trả nợ;
vi. Thời gian quan hệ với Ngân hàng;
vii. Tài sản bảo đảm.
2.2.1.3 Tài sản bảo đảm:
a. Các loại tài sản bảo đảm:
Các loại tài sản sau đây được Ngân hàng chấp nhận làm tài sản bảo đảm cho các khoản tín dụng:
i. Nhà ở, nhà làm việc, nhà xưởng, kho tàng;
ii. Giá trị quyền sử dụng đất, quyền thuê đất;
iii. Máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm, hàng hoá, vàng;
iv. Ngoại tệ có thể chuyển đổi dễ dàng, số dư tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, thẻ tiết kiệm hoặc giấy tờ có giá do Ngân hàng phát hành;
v. Số dư tài khoản tiền gửi tại các tổ chức tín dụng được Ngân hàng chấp nhận;
vi. Tín phiếu, trái phiếu do Chính phủ, Ngân hàng nhà nước phát hành;
vii. Trái phiếu do chính quyền tỉnh, thành phố phát hành được Ngân hàng chấp nhận;
viii. Trái phiếu do Công ty phát hành được Ngân hàng chấp nhận;
ix. Bộ chứng từ L/C xuất khẩu được Ngân hàng chấp nhận;
x. Cổ phiếu của các Công ty được Ngân hàng chấp nhận;
xi. Các loại tài sản bảo đảm khác theo quy định của pháp luật được Tổng Giám đốc quy định trong từng thời kỳ;
xii. Các trường hợp cho vay tín chấp sẽ được nêu tại các Quy chế cho vay cụ thể đối với từng sản phẩm cho vay của Ngân hàng hoặc do Hội đồng Quản trị của Ngân hàng quyết định trong từng trường hợp cụ thể.
Các loại tài sản sau đây không được Ngân hàng chấp nhận làm tài sản bảo đảm cho các khoản tín dụng:
i. Bất động sản đang tranh chấp hoặc có yếu tố nước ngoài;
ii. Bất động sản có từ 5 đồng sở hữu trở lên, ngoại trừ trường hợp đất cấp cho hộ gia đình;
iii. Nhà ở và đất ở trong hẻm dưới 1,0 mét; Nhà ở và đất ở trong hẻm rộng từ 1 đến 1,5 mét cách mặt tiền đường quá 100 mét;
iv. Đất nông nghiệp có diện tích như sau:
Đất lúa có diện tích dưới 500 m2;
Đất thổ-vườn, thổ-màu có diện tích dưới 120 m2;
Đất nông nghiệp khác có diện tích dưới 300 m2.
v. Máy móc thiết bị đã sản xuất trước ngày thế chấp hơn 5 năm; hoặc quá chuyên dùng; hoặc giá trị còn lại quá thấp;
vi. Phương tiện vận chuyển giá trị còn lại thấp; hoặc khó thanh lý; hoặc được sản xuất trước ngày thế chấp hơn 5 năm (đối với xe con), hơn 8 năm (đối với xe khách) và hơn 10 năm (đối với xe tải, xe chuyên dùng).
vii. Hàng hoá, nguyên vật liệu, thành phẩm, bán thàn