Chuyên đề Thực trạng công tác quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội Quận Đống Đa

Cùng với những vấn đề thiết yếu của cuộc sống con người là việc làm và thu nhập, thì bảo hiểm xã hội (BHXH) trong bất kỳ một chế độ xã hội nào cũng là một vấn đề luôn được xem xét, bởi vì rủi ro luôn là một vấn đề dễ xảy ra với mọi người. Chính sách BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, đã được thực hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX. Trải qua gần 40 năm thực hiện với những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách BHXH đã góp phần rất to lớn đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Đến nay, BHXH đã được thực hiện cho công chức Nhà nước, lực lượng vũ trang và người lao động trong các thành phần kinh tế ở những nơi có quan hệ lao động, có sử dụng từ 10 lao động trở lên. và sẽ còn tiếp tục mở rộng cho các đối tượng khác. BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người như trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc họp thông qua ngày 10/12/1948 đã nêu: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH". BHXH ở Việt Nam hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, đặc biệt là sau năm 1995 khi mà quỹ BHXH được hình thành độc lập nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Cơ quan BHXH Quận Đống Đa được thành lập và bắt đầu hoạt động từ tháng 10/1995 cho đến nay đã thu được nhiều thành tự như: phí thu được ngày càng nhiều, chi trả đúng đối tượng. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như: thu BHXH vẫn chưa đạt kết quả cao, nhiều đơn vị vẫn còn lợi dụng kẽ hở pháp luật để trốn nộp BHXH, vẫn tồn tại trục lợi BHXH. Điều này đã làm cho hiệu quả hoạt động của quỹ BHXH còn chưa cao và còn phải nhờ vào Ngân sách Nhà nước. Như vậy, vấn đề thu quỹ BHXH có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của chế độ xã hội Việt Nam cũng như BHXH các tỉnh, huyện trong cả nước trong đó có BHXH Quận Đống Đa. Do vậy mà em chọn đề tài: “Thực trạng công tác quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội Quận Đống Đa” Kết cấu của chuyên đề bao gồm 4 chương: - Chương 1: Khái quát chung về BHXH và thu quỹ BHXH - Chương 2: Một số vấn đề về công tác thu BHXH - Chương 3: Thực trạng công tác quản lý thu quỹ BHXH tại cơ quan BHXH Quận Đống Đa - Chương 4: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý quỹ BHXH trên địa bàn Quận Đống Đa.

doc74 trang | Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1570 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng công tác quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội Quận Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Cùng với những vấn đề thiết yếu của cuộc sống con người là việc làm và thu nhập, thì bảo hiểm xã hội (BHXH) trong bất kỳ một chế độ xã hội nào cũng là một vấn đề luôn được xem xét, bởi vì rủi ro luôn là một vấn đề dễ xảy ra với mọi người. Chính sách BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, đã được thực hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX. Trải qua gần 40 năm thực hiện với những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách BHXH đã góp phần rất to lớn đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Đến nay, BHXH đã được thực hiện cho công chức Nhà nước, lực lượng vũ trang và người lao động trong các thành phần kinh tế ở những nơi có quan hệ lao động, có sử dụng từ 10 lao động trở lên... và sẽ còn tiếp tục mở rộng cho các đối tượng khác. BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người như trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc họp thông qua ngày 10/12/1948 đã nêu: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH". BHXH ở Việt Nam hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, đặc biệt là sau năm 1995 khi mà quỹ BHXH được hình thành độc lập nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Cơ quan BHXH Quận Đống Đa được thành lập và bắt đầu hoạt động từ tháng 10/1995 cho đến nay đã thu được nhiều thành tự như: phí thu được ngày càng nhiều, chi trả đúng đối tượng... Tuy nhiên trong quá trình hoạt động vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như: thu BHXH vẫn chưa đạt kết quả cao, nhiều đơn vị vẫn còn lợi dụng kẽ hở pháp luật để trốn nộp BHXH, vẫn tồn tại trục lợi BHXH... Điều này đã làm cho hiệu quả hoạt động của quỹ BHXH còn chưa cao và còn phải nhờ vào Ngân sách Nhà nước. Như vậy, vấn đề thu quỹ BHXH có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của chế độ xã hội Việt Nam cũng như BHXH các tỉnh, huyện trong cả nước trong đó có BHXH Quận Đống Đa. Do vậy mà em chọn đề tài: “Thực trạng công tác quản lý thu quỹ bảo hiểm xã hội ở cơ quan bảo hiểm xã hội Quận Đống Đa” Kết cấu của chuyên đề bao gồm 4 chương: Chương 1: Khái quát chung về BHXH và thu quỹ BHXH Chương 2: Một số vấn đề về công tác thu BHXH Chương 3: Thực trạng công tác quản lý thu quỹ BHXH tại cơ quan BHXH Quận Đống Đa Chương 4: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý quỹ BHXH trên địa bàn Quận Đống Đa. CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ THU QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỔNG QUAN VỀ BHXH 1. Vài nét về khái niệm và đối tượng BHXH Trong thực tế không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp những thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và những điều kiện sinh sống bình thường, trái lại có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác như bất ngờ bị ốm đau, tai nạn, mất người nuôi dưỡng, hoặc khi tuổi già. Khả năng lao động, khả năng tự phục vụ đều suy giảm. Khi rơi vào những trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động nói trên, các nhu cầu của cuôc sống không vì thế mất đi. Trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí có thể xuất hiện thêm nhu cầu mới, như khi ốm đau sẽ rất cần thuốc chữa bệnh … Bởi vậy muốn tồn tại con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết. Từ khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, xuất hiện việc thuê mướn nhân công, lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động. Dần dần về sau, phải cam kết đảm bảo cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu sinh sống cần thiết khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn, tuổi già … Trong thực tế nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra nên người chủ không phải chi ra một đồng tiền nào. Nhưng cũng có khi lại xảy ra dồn dập, buộc người chủ nhiều lúc phải bỏ ra một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, giới thợ phải liên kết với nhau buôc giới chủ buộc phải thực hiện những gì đã cam kết. Dần dần trong cơ chế thị trường đã xuất hiện một bên thứ 3 đóng vai trò trung gian giúp thực hiện cam kết giữa giới chủ và giới thợ bằng hoạt động thích hợp của nó. Nhờ vậy, thay vì cho việc phải chi trực tiếp những khoản tiền lớn khi lao động bị ốm đau, tai nạn, giới chủ chỉ phải trích ra những khoản tiền nho nhỏ được tính toán chặt chẽ giựa trên những cơ sở xác suất những biến cố của tập hợp những người lao động làm thuê. Số tiền này được giao cho bên thứ 3 tồn tích dần thành một quỹ tiền tệ. Làm như thế một mặt giới chủ đỡ bị thiệt hại về kinh tế do không phải một lúc chi những khoản tiền lớn. Mặt khác người lao động làm thuê được đảm bảo chắc chắn một phần thu nhập khi ốm đau, tai nạn. Nhờ đó, mỗi ông chủ chỉ phải đóng một phần mà mình chịu được nhưng vẫn phải đủ để giải quyết mọi phát sinh theo cam kết với tất cả giới thợ. Song trên thực tế, vấn đề lợi ích luôn luôn vận động với tất cả những khía cạnh của nó. Giới thợ luôn đòi hỏi được đảm bảo nhiều hơn trước tình hình kinh tế - xã hội phát triển, còn giới chủ thì lại mong muốn phải chi ít hơn tức là phảI đảm bảo cho giới thợ ít hơn nên tranh chấp chủ thơ lại tiếp diễn. Trước tình hình như vậy, nhà nước đã phải can thiệp đIềuchỉnh. Sự can thiệp này, một mặt làm tăng vai trò của nhà nước, giới chủ buộc phải đóng góp thêm, đồng thời giới thợ cũng phải đóng góp một phần vào sự đẳm bảo cho chính mình, cả giới chủ và giới thợ đều thấy mình có lợi và được bảo vệ. Mặt khác, Nhà nước phải tăng chi tiêu ngân sách song chính là nhờ vào những mối quan hệ rằng buộc như vậy mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải theo nhiều chiều, một quỹ tiền tệ tập chung trên phạm vi quốc gia nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi bị ốm đau, tai nạn, tuổi già, tàn tật…. được thiết lập. Nhờ vậy đã tạo ra khả năng giải quyết những phát sinh rủi ro, bất lợi lớn nhất với một tổng dự trữ nhỏ nhất, trên cơ sở xác suất phát sinh rủi ro của cả tập hợp người lao động trong phạm vị bao quát của quỹ. Đặc trưng cơ bản của BHXH: Bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động Các rủi do của người lao động liên quan đến thu nhập của họ như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết… Do những rủi ro này mà người lao động giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Họ cần có khoản thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống. Đây là đặc trưng rất cơ bản của BHXH. Người lao động muốn được quyền hưởng trợ cấp BHXH phải có nghĩa vụ đóng BHXH. Người chủ sử dụng lao động cũng phải có nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn. Sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Quỹ BHXH dùng để chi trả các trợ cấp khi có các nhu cầu phát sinh về BHXH. Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các chế độ BHXH cũng do luật định. Nhà nước bảo hộ các hoạt động của BHXH. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ rằng buộc chặt chẽ như trên, được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy có thể hiểu BHXH chính là quá trình tổ chức sử dụng một quỹ tiền tệ tập chung được tồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động với người lao động dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, nhằm đảm bảo phần thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ, khi họ gặp nhiều biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập theo lao động. Tất cả những khía cạnh nêu trên cho thấy BHXH được lập ra là để tác động vào thu nhập theo lao động của người lao động tham gia BHXH. Nói cách khác BHXH là hệ thống bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm, do đó bị mất hoặc giảm khoản thu nhập được thay thế, nhằm đảm bảo thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu cho họ. 2. Sự cần thiết phải có hệ thống BHXH Trong thực tế cuộc sống không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khoẻ khả năng lao động hoặc những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngược lại, không mấy ai tránh khỏi những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác. Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục người lao động phải được sự bảo trợ của cộng đồng tập thể của các tổ chức cơ quan Nhà nước và xã hội. Sự bảo trợ này không thể bằng những nguồn vật chất cần thiết, nhằm phục hồi nhanh chóng sức khoẻ, duy trì sức lao động xã hộ góp phần làm giảm bớt những khó khăn của bản thân và gia đình người lao động khi có những hẫng hụt về thu nhập trong các trường hợp bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hoặc khó khăn khi về già… Tất cả những cái đó đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của người lao động, sự đối mặt với cuộc sống thật nan giải. Tình cảnh này đưa đến những hành động tập thể phát huy truyền thống tương thân, tương ái vốn có từ trong nhân dân, đồng thời cũng đòi hỏi giới chủ, giới thợ và Nhà nước từng bước can thiệp để duy trì lực lượng nhân công cần thiết cho xã hội. Qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa vấn đề của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, cùng với trình độ chuyên môn và nhận biết về BHXH của người lao động ngày càng được nâng cao, cách chủ động khác phục khi không may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu qủa nhất. Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài người trong quá trình phát triển đất nước. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người. 3. Các mối quan hệ bên trong của BHXH Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH. Trong BHXH, mỗi quan hệ này dựa trên quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH: Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước (trong một số trường hợp). Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở san sẻ rủi ro của số đông người lao động khác. Người sử dụng lao động có trách nhiệm phải bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Khi tham gia BHXH, người sử dụng còn vì lợi ích của chính họ, ở đây người sử dụng lao động cũng thực hiện san sẻ rủi ro với tập đoàn người sử dụng lao động, để đảm bảo cho quá trình sản xuất của họ không bị ảnh hưởng khi phát sinh nhu cầu BHXH. Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người bảo hộ cho các hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội, bảo đảm giá trị đồng vốn, hỗ trợ cho quỹ BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn và hỗi trợ cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết. Ngoài ra, Nhà nước tham gia BHXH còn với tư cách chủ thể quản lý, định ra những chế độ, chính sách, định hướng cho các hoạt động BHXH. Bên BHXH, đó là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH. Bên BHXH thường là một số tổ chức (cơ quan, công ty …) do Nhà nước lập ra (ở một số nước có thể do tư nhân lập ra) nhận sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, lập nên quỹ BHXH. Bên BHXH có trách nhiệm thực hiện chi trả nợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và làm cho quỹ BHXH phát triển. Bên được BHXH là người lao động tham gia BHXH và nhân thân của họ theo quy định của pháp luật. Bên được BHXH được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại rủi ro được bảo hiểm gây ra. Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong kinh tế thị trường, bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH (người lao động chẳng hạn). Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa là người được quyền hưởng BHXH vì đóng phí được BHXH để bảo hiểm cho chính họ. 4. Bản chất của BHXH BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đặt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng phong phú. Thực chất BHXH là sự đền bù hậu quả của những “rủi ro xã hội”. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Như vậy BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vị toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tại nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết... Vì vậy thực chất của BHXH là thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thoả mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít” Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rồi mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH. Dưới góc độ kinh tế, bản chất BHXH chính là sự đảm bảo thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vị BHXH. Dưới góc độ chính trị, bản chất của BHXH là sự liên kết của những người lao động, xuất phát từ lợi ích chung của họ. Dưới góc độ xã hội, bản chất của BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng xuất lao động ổn định trật tự xã hội. 5. Chức năng cơ bản của BHXH Cũng như các thành phần khác của kinh tế bảo hiểm, BHXH có hai chức năng cơ bản là chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Tuy nhiên, do tính đặc thù của mình, BHXH không những có tính kinh tế mà còn có tính xã hội rất cao. Vì vậy, về tổng quát, BHXH có những chức năng sau: Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động được bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động hoặc mất việc làm theo những điều kiện xác định. Sở dĩ như vậy vì giữa người lao động với cơ quan BHXH có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Quan hệ này phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ tài chính BHXH. Quan hệ đó diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia bảo hiểm, bên nhận bảo hiểm và bên được bảo hiểm. Phân phối lại thu nhập. Những người sử dụng lao động bắt buộc phải đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm nhưng không phải trực tiếp cho mình mà cho người lao động do người sử dụng nên không được quyền hưởng trợ cấp, những người lao động có đóng góp vào quỹ BHXH mới có quyền hưởng trợ cấp nhưng do còn khoẻ mạnh, có việc làm và có thu nhập bình thường nên không được hưởng trợ cấp bảo hiểm. Số lượng những người không được hưởng trợ cấp nhu vậy thường chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng số những người tham gia đóng góp. Chỉ những người lao động bị giảm hoặc bị mất thu nhập trong những trường hợp xác định và có đủ các điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp nêu trên. Như vậy BHXH đã lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang giữa những người lao động có thu nhập thấp hơn, giữa những người lao động khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc và khái quát hơn là giữa số đông những người đóng góp vào quỹ BHXH đều kỳ với số ít người hưởng trợ cấp theo những chế độ xác định. Điều đó cũng góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội. Góp phần kích thích, khuyến khích người lao động hăng hái tham gia sản xuất. Người lao động có việc làm, khi khoẻ mạnh làm việc bình thường sẽ có tiền lương, tiền công, khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già hoặc không may bị chết đã có BHXH bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập quan trọng, do đó đời sống của bản thân và gia đình họ luôn có chỗ dựa, luôn luôn được bảo đảm. Chính vì thế, họ sẽ gắn bó với công việc, với nơi làm việc và yên tâm, tích cực lao động sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động cũng như tăng hiệu quả kinh tế. Nói cách khác, tiền lương (tiền công) và BHXH là những động lực thúc đẩy hoạt động lao động của người lao động. Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích BHXH dựa trên cơ sở đóng góp ít nhưng đều kỳ của mọi người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước cho bên thứ 3 là cơ quan BHXH, để tồn tích dần thành một quỹ tập trung, quỹ này lại huy động phần nhàn rỗi tương đương vào hoạt động sinh lợi làm tăng thêm nguồn thu. Do đó BHXH hoàn toàn có thể bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp rủi ro, khó khăn theo những chế độ xác định, góp phần bảo đảm ổn định và an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ . Trên giác độ xã hội, bằng phương thức dàn trải rủi ro thiệt hại theo cả thời gian và không gian, BHXH đã giúp thiểu thiệt hại cho số đông người trong xã hội, đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro, khó khăn của những người lao động tham gia BHXH với một tổng dự trữ ít nhất. Đối với Nhà nước, chi cho BHXH đối với những người lao động là cách thức phải chi ít nhất nhưng vẫn giải quyết tốt những rủi ro, khó khăn về đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội ổn định và an toàn. Đối với người sử dụng lao động và người lao động cũng như vậy. Cả hai giới này đều thấy nhờ BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. 6. Hệ thống các chế độ BHXH. Các chế độ BHXH là hệ thống các quy định về mức hưởng của từng chế độ, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời hạn hưởng cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro thuộc từng phạm vi chế độ. Có thể nói, hệ thống các chế độ là nội dung cốt lõi nhất của BHXH, nó thể hiện được vai trò của BHXH đối với người lao động khi tham gia BHXH. Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: Chăm sóc y tế
Tài liệu liên quan