Chuyên đề Thực trạng tai nạn lao động - Bệnh nghề nghiệp và công tác chi trả chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam

Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại v.v Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm .v.v Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau: tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng v.v. Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v.v Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không mang bị ốm, tại nạn, thai sản v.v Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quạn hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Với sự xuất hiện của BHXH là 1 tất yếu liên quan và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của mỗi quốc gia. BHXHđã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống của mỗi người lao động, đó là 1 chính sách hỗ trợ đắc lực nhằm đảm bảo cho cuộc sống của người lao động và gia đình họ luôn ổn định.

doc69 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng tai nạn lao động - Bệnh nghề nghiệp và công tác chi trả chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tên chuyên đề: Thực trạng tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp và công tác chi trả chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam. Chương I: Lý luận chung về BHXH và chế độ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp I. Lý luận chung về bảo hiểm xã hội. 1. Sự cần thiết khách quan của BHXH. Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại v.v… Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm .v.v Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau: tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng v.v.. Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v.v…Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không mang bị ốm, tại nạn, thai sản v.v… Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quạn hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Với sự xuất hiện của BHXH là 1 tất yếu liên quan và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của mỗi quốc gia. BHXHđã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống của mỗi người lao động, đó là 1 chính sách hỗ trợ đắc lực nhằm đảm bảo cho cuộc sống của người lao động và gia đình họ luôn ổn định. 2. Lịch sử hình thành và phát triển của BHXH. 2.1. BHXH trên thế giới. Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã có lịch sử hàng trăm năm mà mầm sống của nó có từ thế kỷ XIII ở Nam Âu, khi nền công nghiệp và nền kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên ban đầu bảo hiểm xã hội chỉ mang tính sơ khai với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII, một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ (chẳng hạn như ở Anh, năm 1473 đã thành lập hội "Bằng hữu" để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tại nạn…) Năm 1883, Đức dưới thời Thủ tướng Bisinark đã ban hành đạo luật bảo hiểm xã hội đầu tiên trên thế giới. Theo Đạo luật này, hệ thống bảo hiểm xã hội ra đời với sự tham gia bắt buộc của cả người làm công ăn lương và giới chủ. Nhà nước bảo đảm một số chế độ và giữ vai trò quản lý, định hướng hoạt động của mình. Đến đầu thế kỷ XX, bảo hiểm xã hội đã mở rộng ra toàn thế giới, đặc biệt là các nước Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ, Canada và một số nước khác. Tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ,Tổ chức lao động quốc tế (TLO) đã thông qua công ước số 102 với những quy phạm tối thiểu về bảo hiểm xã hội, trong đó có quy định hệ thống gồm 9 chế độ đó là: (1) Chăm sóc y tế (2) Trợ cấp ốm đau (3) Trợ cấp thất nghiệp (4) Trợ cấp tuổi già (5) Trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp (6) Trợ cấp gia đình (7) Trợ cấp sinh đẻ (8) Trợ cấp khi tàn phế (9) Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội. Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia Công ước Gionevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ (3); (4) (5); (8); (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế -xã hội; tài chính; thu nhập; tiền lương… Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia; nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong… Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội có những đặc điểm chủ yếu sau: + Các chế độ được xây dựng dựa theo luật pháp mỗi nước. + Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chưa sẻ tài chính. + Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. + Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ. + Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. + Chi trả bảo hiểm như là quyền lợi của mỗi chế độ bảo hiểm xã hội. + Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định + Các chế độ bh xã hội cần được điều chỉnh định kỳ để phản ánh sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội. 2.2. BHXH ở Việt Nam. 2.2.1. Giai đoạn 1945 -1964 Sau khi Cách mạng tháng tám thành công, chính phủ đã ban hành một số chính sách xã hội, trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội. Cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự ra đời của bảo hiểm xã hội ở Việt Nam là Hiến pháp năm 1946, trong đó có nêu rõ: người lao động được bảo đảm quyền việc làm, nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội, cứu tế; Phụ nữ được nghỉ trước khi đẻ… Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành một số Sắc lệnh, trong đó có những nội dung quy định một số chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước.(Sắc lệnh 29/5/1950 và Sắc lệnh 7677/SL ngày 22/5/1950…) Về chế độ hưu trí, Sắc lệnh 76/SL có quy định: "Sau khi làm việc được 30 năm hay đã 55 tuổi, công chức thuộc ngạch thường trú được về hưu; đối với công chức các ngạch thuộc hạng lưu động, hạn về hưu là 50 tuổi hay 25 năm làm việc" đối với công nhân, Sắc lệnh77/SL quy định:"Công nhân làm việc được về hưu" Tuy nhiên, do đất nước mới giành được độc lập lại phải bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, nên những quy định trên chỉ mới giải quyết cho những công nhân, viên chức già yếu về nghỉ được hưởng trợ cấp một lần. Khi hoà bình được lập lại, Chính phủ đã có quy định về trợ cấp mất sức lao động cho công nhân viên chức kháng chiến và công nhân viên chức lưu dụng do già yếu, ốm đau, tai nạn lao động (Nghị định 594/TTg ngày 11 tháng 12 năm 1957)… Do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội, nên chính sách bảo hiểm xã hội mới chỉ giải quyết những vấn đề cấp thiết trước mắt, chủ yếu là những người tham gia cách mạng, những người làm việc trong khu vực Nhà nước. Các chế độ bảo hiểm xã hội được ban hành chủ yếu dưới dạng phụ cấp, với tinh thần đồng cam cộng khổ phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến của toàn dân, nhưng đã giúp giải quyết một phần khó khăn đời sống công nhân viên chức, đồng thời tạo tiền đề để xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội sau này. Bước tiến tiếp theo, trong Hiến pháp năm 1959 thừa nhận công nhân viên chức có quyền được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội. Quyền này được cụ thể hoá trong Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 và Điều lệ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Các văn bản pháp luật này đã quy định rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh; quy định các chế độ bảo hiểm xã hội (gồm 6 chế độ là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất); quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong xã hội xã hội… Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng được căn cứ vào thời gian công tác nói chung và thời gian công tác cho cách mạng, vào tuổi đời (đối với chế độ hưu, nam đủ 60 tuổi có 25 năm công tác nói chung,trong đó có 5 năm công tác liên tục; nữ đủ55 tuổi có 20 năm công tác nói chung, trong đó có 5 năm công tác liên tục), vào điều kiện làm việc, vào tình trạng suy giảm khả năng lao động. Đối với những người được tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến, nếu có đủ 15 năm công tác liên tục mà bị mất sức lao động từ 61% trở lên thì được hưởng hưu trí, không phân biệt tuổi đời. Có thể nêu khái quát một số đặc điểm của chính sách bảo hiểm xã hội của thời kỳ như sau: Thứ nhất, đối tượng của chính sách bao gồm công nhân viên chức và lực lượng vũ trang- những lực lượng chủ đạo của nền kinh tế và xã hội thời kỳ này. Thứ hai, điều lệ có quy định các xã hội trích nộp (ban đầu là 4,7% quỹ tiền lương) vào ngân sách để chi cho các chế độ bảo hiểm xã hội, nhưng chủ yếu các chi phí về bảo hiểm xã hội đều do ngân sách Nhà nước đài thọ Thứ ba, mức trợ cấp bảo hiểm xã hội gắn với chế độ tiền lương và với nguyên tắc phải thấp hơn mức tiền lương khi làm việc và có tính đến các chính sách đãi ngộ đối với những người có thành tích công hiến cho cách mạng. Thứ tư, 3 chế độ ngắn hạn giao cho Công đoàn quản lý và thực hiện; 3 chế độ dài hạn giao cho cơ quan quản lý Nhà nước quản lý và thực hiện. Chính sách bảo hiểm xã hội thời kỳ này đã đáp ứng được yêu cầu các nhiệm vụ chính trị của đất nước, đã góp phần ổn định đời sống của cán bộ, bộ đội khi đất nước mới giành độc lập, trong kháng chiến chống Pháp, tiếp đó là trong những năm đầu khôi phục phát triển kinh tế. Đồng thời đánh dấu bước tiến quan trọng, lần đầu tiên chúng ta có chính sách bảo hiểm xã hội tương đối hoàn chỉnh với việc ban hành Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội gồm 6 chế độ. 2.2.2. Giai đoạn 1965 - 1975 Về cơ bản, chính sách bảo hiểm xã hội trong giai đoạn này vẫn được thực hiện theo Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức và lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, có một số văn bản được sửa đổi cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đất nước, như Nghị định 163/CP ngày 4/7/1974 của Hội đồng Chính phủ. Những văn bản này đã góp phần khắc phục những quy định chưa phù hợp trong các chế độ bảo hiểm xã hội, như: điều kiện nghỉ hưu; điều kiện về thời gian công tác liên tục để được hưởng trợ cấp mất sức lao động; cách xác định tiền tuất… Đặc biệt, có điểm sửa đổi quan trọng là điều kiện nghỉ hưu của các đối tượng nêu trong Thông tư 84/TTg ngày 20/ 8/1963, quy định nam 52 tuổi, nữ 47 tuổi và có 25 năm công tác liên tục được nghỉ hưu. Có thể nêu khái quát ý nghĩa của chính sách bảo hiểm xã hội trong giai đoạn này là: - Chính sách bảo hiểm xã hội thời kỳ này đã có ý nghĩa rất lớn trong việc động viên cán bộ, công nhân, viên chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước là xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chi viện cho Miền Nam, hoàn thành cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước. - Chính sách bảo hiểm xã hội đã được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của giai đoạn này, đã góp phần bảo đảm đời sống đối với những người tham gia cách mạng, những người làm công ăn lương; khẳng định tính đúng đắn của chính sách bảo hiểm xã hội trong cuộc sống. - Tạo cơ sở để đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội sau này. 2.2.3. Giai đoạn 1976 - 1985. Về cơ bản, chính sách bảo hiểm xã hội vẫn được thực hiện theo Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, đây là thời kỳ có nhiều khó khăn, phức tạp về kinh tế xã hội, ảnh hưởng đến chính sách bảo hiểm xã hội. Ngay sau khi đất nước thống nhất, để đảm bảo quyền lợi cho những người chiến đấu và công tác ở Miền Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/NĐ76 (tháng 8/1976) áp dụng chế độ hưu trí, mất sức lao động, tử tuất đối với công nhân viên chức và quân nhân ở Miền Nam và cả chế độ đối với công nhân viên chức trước làm việc cho chế độ cũ, sau khi giải phóng làm việc cho ta năng đã già yếu. Chính sách bảo hiểm xã hội đã được thi hành thống nhất ngay khi Miền Nam vừa được giải phóng đã góp phần giải quyết những hậu quả của chiến tranh để lại, cán bộ, quân nhân về già yếu ốm đau phải nghỉ việc trước ngày giải phóng đã được hưởng trợ cấp. Năm 1978, để giải quyết khó khăn cho những cán bộ có tham gia kháng chiến, Chính phủ đã ra quyết định 198/CP ngày 8/8/1978 sửa lại điều kiện nghỉ hưu của Nghị định 163/CP (25 năm công tác liên tục, tuổi đời là nam 50; nữ 45 tuổi); đồng thời bổ sung điều kiện hưởng trợ cấp mất sức lao động dài hạn. Vào đầu những năm 80, tình hình kinh tế xã hội của nước ta gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế suy giảm dẫn đến tình trạng dư thừa lao động. Cùng với các chính sách giải quyết lao động khác, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 16/HĐBT ngày 8/2/1982 trong đó quy định: nếu có 25năm công tác liên tục (20 năm đối với lao động làm các công việc, nghề nặng nhọc độc hại) thì được nghỉ hưu không khống chế tuổi đời. Đối với những người về nghỉ mất sức lao động thì không cần phải qua giám định khả năng lao động ở hội động giám định Y khoa. Từ tháng 9 năm 1985, cùng với việc cải tiến chế độ tiền lương của công nhân viên chức và lực lượng vũ trang, hội đồng Bộ trưởng đã ban hành nghị định 236/HĐBT(ngày 18/1985) bổ sung, sửa đổi một số nội dung bảo hiểm xã hội, bao gồm việc quy đổi thời gian công tác và sửa đổi tỷ lệ hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.Về thời gian công tác, quy định được quy đổi theo hệ số tuỳ điều kiện công tác và chiến đấu. Theo đó 1 năm công tác được quy đổi là 1 năm 2 tháng hoặc 1 năm 4 tháng, hoặc 1 năm 6 tháng. Về tỷ lệ hướng dẫn đã được sửa đổi từ 45 - 75% lên 75%- 95% lương chính và phụ cấp thâm niên. Những sửa đổi này nhằm ưu đãi đối với những người lao động chiến đấu ở những vùng khó khăn gian khổ và đảm bảo đời sống của công nhân, viên chức nghỉ hưu do biến động của tiền lương và giá cả. Ngoài ra, công nhân viên chức và quân nhân làm các công việc, nghề nặng nhọc độc hại hoặc làm việc ở những vùng khó khăn gian khổ hoặc vì bị thương, bị tai nạn, bị ốm đau mà mất sức lao động đã có đủ điều kiện về thời gian công tác nhưng không đủ điều kiện về tuổi đời cũng được hưởng lương hưu. Có thể nói đây là sự sửa đổi quan trọng nhất trong chính sách bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, ở giai đoạn này do tiền lương chưa được tiền tệ hoá nên các chế độ bảo hiểm xã hội cũng chưa thực sự được tiền tệ hoá, chính sách bảo hiểm xã hội có những thiếu sót nhất định. 2.2.4. Giai đoạn 1986 đến nay Sự đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách bảo hiểm xã hội nói riêng. Cơ sở pháp lý để cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội là Hiến pháp năm 1992. Trong Hiến pháp nêu rõ: "Nhà nước thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với công chức Nhà nước và người làm ăn công lương, khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động ". Đảng ta chủ trương đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng mọi người lao động và các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp bảo hiểm xã hội, tách quỹ bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước là người lao động làm công ăn lương ra khỏi ngân sách. Thực hiện các chủ trương trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định43/CP ngày22/6/1993 quy định tạm thời chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động ở các thành phần kinh tế. Đây là bước tiến quan trọng trong chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Lần đầu tiên, người lao động ở các thành phần kinh tế được tham gia bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc có đóng có hưởng bảo hiểm xã hội. Tiếp sau đó, khi Quốc hội thông qua Bộ luật lao động ngày23/6/1994, Chính phủ ngày 26/11/1995 về Điều lệ bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các thành phần kinh tế thay thế những quy định về chính sách bảo hiểm xã hội trước đây. Điều lệ bảo hiểm xã hội mới được ban hành là một bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Điều lệ đã thể chế hoá những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, đối tượng áp dụng là người lao động làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên. Thứ hai, pháp luật bảo hiểm xã hội quy định rõ người lao động muốn được hưởng thì phải đóng bảo hiểm xã hội, người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng để bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn hoặc sử dụng. Nhà nước có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động làm việc trong khu vực do ngân sách trả lương. Quy định này đã ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, đồng thời quy định rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người thụ hưởng. Thứ ba, pháp luật bảo hiểm xã hội quy định trong chính sách bảo hiểm xã hội có 5 chế độ là ốm đau: thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;hưu trí và tử tuất. Thứ tư, quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tài chính không thuộc ngân sách Nhà nước. Quỹ được hình thành chủ yếu từ các nguồn do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp. Thứ năm, điều lệ cũng quy định rõ các chức năng quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội và chức năng hoạt động sự nghiệp bảo hiểm xã hội. Sự phân định rõ các chức năng này là một bước tiến mới trong bảo hiểm xã hội nhằm hạn chế sự chồng chéo, tăng cường hiệu lực và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan có liên quan trong bảo hiểm xã hội. Chức năng hoạt động sự nghiệp bảo hiểm xã hội được giao cho bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Việt Nam có nhiệm vụ quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, thực hiện các nghiệp vụ về thu- chi bảo hiểm xã hội và đầu tư để phát triển quỹ. Bộ lao động - Thương binh và xã hội được Chính phủ giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội với các chức năng:xây dựng và trình ban hành pháp luật về BHXH; ban hành các văn bản pháp quy về BHXH thuộc thẩm quyền; hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện BHXH. Điều lệ BHXH lần này đã đổi mới một bước quan trọng chính sách BHXH, từ chỗ bao cấp là chủ yếu chuyển sang thực hiện cơ chế có đóng có hưởng BHXH: Quỹ BHXH độc lập và không thuộc ngân sách Nhà nước, là của người lao động, người sử dụng lao động, giảm dần sự trợ giúp của ngân sách Nhà nước, tiến tới tự cân đối thu chi. 3. Chức năng và tính chất của BHXH. BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Với cách hiểu như trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây: - BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của
Tài liệu liên quan