Chuyên đề Thực trạng tình hình chống lạm phát của chính phủ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm: - Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung). - Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).

pdf33 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng tình hình chống lạm phát của chính phủ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT 1.1 Khái niệm lạm phát Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt. 1.2 Các phép đo chủ yếu của chỉ số lạm phát Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm: - Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung). - Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra). - Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không 2 bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ. - Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI. - Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc. - Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình. - Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân". 1.3 Phân loại lạm phát Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa, nên các nhà kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành ba mức độ khác nhau: - Lạm phát vừa phải: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ một con số hàng năm (dưới 10% một năm). Lạm phát vừa phải còn được gọi là 3 lạm phát nước kiệu hay lạm phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất xúc tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Lạm phát cao: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con số hàng năm (từ 10% - 100% một năm). Lạm phát cao còn được gọi là lạm phát phi mã. Thật ra, cũng có một số nhà kinh tế quan điểm cho rằng thuộc loại lạm phát phi mã bao gồm cả lạm phát ở mức độ ba con số (như 100%, 200%...). Lạm phát phi mã gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội. - Siêu lạm phát: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hàng năm trở lên. Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì là tốt khi nền kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Người ta thường ví siêu lạm phát như căn bệnh ung thư gây chết người, có những tác hại rất lớn đến kinh tế - xã hội. Lịch sử lạm phát của thế giới đã ghi nhận tác hại của siêu lạm phát xảy ra ở Đức năm 1920 – 1923, ở Nga sau Cách mạng tháng 10, ở Trung Quốc sau thế chiến thứ hai… * Ngoài ra, người ta còn phân loại lạm phát dựa vào việc so sánh hai chỉ tiêu là tỷ lệ tăng giá và tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Theo cách này lạm phát sẽ ở trong hai giai đoạn sau: Giai đoạn 1: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá nhỏ hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Một bộ phận của khối tiền gia tăng về cơ bản đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ của nền kinh tế. Theo các nhà kinh tế, lạm phát nằm ở giai đoạn này có thể chấp nhận được và thậm chí còn cho rằng lạm phát khi đó còn là liều thuốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn 2: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá lớn hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Sở dĩ như vậy là do lạm phát với tỷ lệ cao kéo dài đã làm cho kinh tế suy thoái. Hệ quả là khối lượng tiền phát hành vượt mức khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Trong trường hợp này lạm phát gây nguy hiểm trầm trọng cho nền kinh tế. 1.4 Nguyên nhân của lạm phát Khi nghiên cứu nguyên nhân của lạm phát, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm khác nhau do tiếp cận nó ở nhiều góc độ. Tuy vậy, tựu trung lại có các quan điểm sau: 4 1.4.1 Lạm phát do cầu kéo Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt quá sản lượng tiềm năng, việc tăng tổng mức cầu dẫn tới lạm phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu. Số cầu tăng là do tổng khối lượng tiền lưu hàng (M) tăng hoặc do tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng. Số lượng tiền tệ tăng do nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn hết và thường xảy ra hơn hết là do thiếu hụt ngân sách nhà nước. Số thiếu hụt này được tài trợ bằng nhiều cách: phát hành trái phiếu, vay mượn ở nước ngoài và nay mượn ở ngân hàng trung ương. Một khi ngân hàng trung ương tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước tức là ngân hàng trung ương đã trực tiếp làm tăng khối cung tiền. Vay mượn của nước ngoài cũng làm tăng khối tiền tệ. Khối tiền tệ tăng làm cho tổng số chi trả tăng, do đó gây ra áp lực lạm phát. Tốc độ lưu thông tiền tệ gia tăng chủ yếu là do hệ thống chính trị khủng hoảng, kinh tế suy thoái làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ nhà nước bị xói mòn, từ đó gây ra tâm lý chạy trốn đồng tiền mất giá. 1.4.2 Lạm phát do chi phí đẩy Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, chúng ta gọi đó là lạm phát do chi phí đẩy. Vấn đề đặt ra là tại sao chi phí tăng lên? Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền lương tăng lên là một nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên khi tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Một số nhà kinh tế cho rằng việc đẩy chi phí tiền lương tăng lên là do các công đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác lại cho rằng chính công đoàn đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm phát và giữ cho lạm phát không giảm xuống quá nhanh vì các hợp đồng lương của công đoàn thường là dài hạn và khó thay đổi. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép… cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đẩy chi phí sản xuất tăng lên, dẫn đến sức ép đòi tăng giá bán. 1.4.3 Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị… gần như đã được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung hàng hóa và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình trạng tắt nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng mất cân 5 đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ chế điều phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên của thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất yếu. Cũng cần lưu ý rằng, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế tổ chức bất hợp lý thì cũng không cho phép tạo ra khối lượng hàng hóa và dịch vụ đầy đủ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường hợp này cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát. 1.4.4 Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác * Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù hợp của nhà nước như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất… làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì điều tất yếu là nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền. Đặc biệt đối với một số quốc gia, trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế. * Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới… 6 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CHỐNG LẠM PHÁT CỦA CHÍNH PHỦ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 2.1 Diễn biến tình hình lạm phát ở nước ta trong giai đoạn hiện nay Kết thúc 2007, bên cạnh những thành công, lần đầu tiên sau hơn 10 năm CPI tháng 12 năm 2007 tăng so với tháng 12 năm trước là hai chữ số: 12,63%, và Việt Nam đã không thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội thông qua: “CPI thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế”; đặc biệt, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng tới 18,92%, riêng lương thực tăng 15,4% và thực phẩm tăng 21,2%. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng 12,6%, tháng 1/2008 tăng 2,38% và dự báo tăng cao hơn trong tháng 2/2008. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 8,44% trong năm 2007 và Chính phủ đặt mục tiêu tăng 9,0% trong năm 2008. (Tỷ lệ tăng trưởng phải cao hơn tốc độ lạm phát). Bước sang năm 2008, tình hình lạm phát càng diễn biến phức tạp hơn, chỉ số giá tiêu dùng ngày càng tăng cao. Trong đó: - Chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 tăng 2.38% so với cuối năm 2007 - Chỉ số giá tiêu dùng tháng 2 tăng 6.02% so với cuối năm 2007 - Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 tăng 9.09% so với cuối năm 2007 - Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 tăng 11.6% so với cuối năm 2007 - Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5 tăng 15.96% so với cuối năm 2007 (Nguồn: Tổng cục thống kê) 7 Trong các nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, chỉ có giá bưu chính viễn thông do kỹ thuật công nghệ tiến bộ nhanh, do có cạnh tranh mạnh giữa các doanh nghiệp, nên giá liên tục giảm (tháng 4 giảm 0,06%, 4 tháng giảm 9,15%, sau 1 năm giảm 12,17%), còn tất cả các nhóm khác giá đều tăng. Điều đó chứng tỏ yếu tố tiền tệ vẫn còn tác động mạnh đến lạm phát, nên mới làm cho giá của tất cả các nhóm hàng đều tăng. Tốc độ tăng cuối tháng 3.2008 so với cuối tháng 12.2007 của dư nợ tín dụng cao gấp đôi của huy động vốn (10,8% so với 5,48%) đã chứng tỏ tiền từ ngân hàng ra lưu thông tăng cao hơn tiền từ lưu thông vào ngân hàng, tạo áp lực cho lạm phát. Trong các nhóm hàng hóa, dịch vụ, thì giá lương thực tăng cao nhất (tháng 4 tăng 6,11%, 4 tháng tăng 25,12%, sau 1 năm tăng 38,21%), tiếp đến là giá thực phẩm (tương ứng là 2,22%, 15,59%, 33,63%), ăn uống ngoài gia đình (tương ứng là 2,02%, 16,52%, 30,43%). Tính chung nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao (tương ứng là 3,11%, 18,01%, 34,11%). Nhóm hàng này tăng cao không chỉ bởi khó khăn ở trong nước (do thiên tai, thay đổi khí hậu tòan cầu, diện tích đất canh tác giảm, dịch bệnh lớn, chi phí đầu vào cao), mà còn do giá thế giới tăng cao kéo giá trong nước lên theo (giá gạo xuất khẩu 4 tháng năm nay tăng 54,7% so với cùng kỳ năm trước). Do nhóm hàng này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng của dân cư (42,85%), nên đã tác động lớn đến tốc độ tăng giá chung. Đối với nhóm hộ nghèo, tỷ trọng này còn cao hơn (trên 60%) và cao gấp đôi nhóm người giàu, nên tốc độ tăng giá cao của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống càng làm cho nhóm hộ nghèo khổ hơn. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng) giá cũng tăng rất cao (tháng 4 tăng 2,62%, 4 tháng sau tăng 10,84%, sau 1 năm tăng 22,59%) càng làm cho mong muốn cải thiện về nhà ở của những người có nhu cầu thực, nhất là những người có thu nhập thấp trở lên xa vời. Điển hình, giá sắt thép vào ngày 1/6/2008 là 16.200.000VND/tấn, đến ngày 14/6/2008 tăng lên 17.500.000VND/tấn, và hiện nay (25/6/2008) giá sắt thép tăng lên 18.700.000VND/tấn. Nhóm phương tiện đi lại, bưu điện giá tăng cao (tháng 4 tăng 2,33%, 4 tháng tăng 9,83%, sau 1 năm tăng 15,39%) chủ yếu do tác động của giá xăng dầu tăng cuối tháng 2, từ đó làm ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của hàng lọat các ngành công nghiệp khác do sự gia tăng các chi phí liên quan đến sự tăng giá của các nhiên liệu. 8 (Nguồn: Tổng cục thống kê) 2.2 Một số nguyên nhân gây ra lạm phát ở nước ta 2.2.1 Lạm phát do chi phí đẩy: Năm 2007 Việt Nam nhập khẩu : 60,83 tỷ USD bằng 83% GDP. Riêng với ngành chế biến, Việt Nam gần như là công xưởng gia công cho nước ngoài, bởi nguyên liệu chính cho các ngành giầy da, dệt, may mặc, nhựa,... hầu hết phụ thuộc vào nhập khẩu, đặc biệt 100% nhiên liệu lỏng đã chế biến (xăng dầu) phải nhập khẩu. Vì vậy giá cả phụ thuộc rất nhiều vào phía đối tác. Trong tình hình, giá cả thế giới đang tăng cao, không tránh khỏi chi phí sản xuất, gia công của các doanh nghiệp trong nước cũng tăng cao. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, hàng hóa xuất khẩu của nền kinh tế trong 5 tháng qua mang về 23,39 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Song giá trị nhập khẩu lại tăng tới 67%, đưa nhập siêu lên 14,4 tỷ USD. Trong năm 2007, chênh lệch cán cân xuất - nhập khẩu của nền kinh tế là 12,4 tỷ USD, và được coi là mức rất cao so với các năm trước. 9 Các mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong các tháng vẫn là máy móc và nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất, trong đó máy móc thiết bị chiếm 5,7 tỷ USD, xăng dầu 4,85 tỷ USD và sắt thép 4,1 tỷ USD. Ngoài ra, vải, điện tử - linh kiện và chất dẻo cũng là các mặt hàng "ngốn" nhiều ngoại tệ. Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng giá trị nhập khẩu, ôtô, urê và sắt thép đang dẫn đầu với mức tăng lần lượt 292%, 184,3% và 137,8%. Trong 5 tháng đầu năm, mặt hàng thu về nhiều ngoại tệ nhất vẫn là dầu thô, với 4,5 tỷ USD. dệt may, giày dép, thủy sản tiếp tục là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, với giá trị lần lượt đạt 3,2 tỷ USD, 1,7 tỷ USD và 1,4 tỷ USD. 2.2.2 Lạm phát do cầu kéo: Bao gồm nhiều yếu tố liên quan đến quan hệ cung- cầu , quan hệ đến tiền - hàng với các giải pháp tăng cung (tăng thêm khối lượng hàng hóa, chủng loại hàng hóa), đồng thời phân phối hàng hóa đến người sử dụng kịp thời, đúng lúc, đúng địa chỉ..., giảm lượng tiền mà xã hội sử dụng vào mục đích tiêu dùng. * Về cung – cầu hàng hóa, năm 2007, với mức tăng trưởng GDP: 8,48% không phải là mức tăng trưởng thấp, nếu không muốn nhấn mạnh đây là thành tựu đáng tự hào của Việt Nam (theo ADB, mức tăng trưởng GDP của Trung Quốc: 11,2%, Singapore: 7,5%, Philippin: 6,6%, Indonesia: 6,2%, Malaysia: 5,6%, Thai Lan: 4,0%); Giá trị sản xuất của ngành trồng trọt tăng nhưng sản lượng lương thực lại giảm. Ngành chăn nuôi, sản lượng thịt lợn (nguồn tiêu dùng lớn nhất về thịt) xuất chuồng tăng không đáng kể (khoảng 1%) trong khi tăng bình quân các năm trước từ 5 – 7%. Như vậy khối lượng hàng hoá cung cấp cho thị trường có bị giảm sút hoặc không tăng, trong khi nhu cầu tiêu dùng tăng. Mặt khác, cung năm 2007 cũng bị ảnh hưởng nhiều do thiên tai, dịch bệnh đã làm thiệt hại nhiều tới sản xuất, tới đời sống nhân dân nói chung, nhất là nhân dân vùng bị thiên tai, dịch bệnh nói riêng, theo tính toán thiệt hại này vào khoảng 1% GDP (1% này là tính chưa đủ, vì 1% là thiệt hại làm giảm cung khoảng 1% GDP, nhưng những thiệt hại ấy lại gắn liền tới đời sống và sản xuất của nhân dân, cần sớm được khôi phục, cần bù đắp như trước khi bị thiên tai, do vậy, cầu cũng tăng lên 1%) – đây là điều các nhà hoạch định không tính đến. 10 * Về tiền tệ, năm 2007 ở Việt Nam có một vài đặc điểm cần chú ý đã làm tăng khối lượng tiền tệ trong dân và tự nó đã làm tăng cầu: - FDI đạt khoảng 20,3 tỷ USD (gồm trên 17,8 tỷ USD là số vốn đăng ký cho các dự án mới được cấp giấy phép trong năm 2007 và gần 2,5 tỷ USD là vốn đăng ký bổ sung các dự án được cấp phép từ các năm trước), tăng 69,3 % so với năm 2006, vượt kế hoạch 56,3% và đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện khoảng 4,6 tỷ USD, tăng 600 triệu USD. - Đầu tư gián tiếp năm 2007 cũng là năm đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam tăng vọt, thông qua việc mua các cổ phiếu (năm 2007 ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 4,3 tỷ USD). - ODA cũng là năm đạt mức khá cao: tính chung hai năm 2006-2007, tổng vốn ODA dành cho Việt Nam đạt khoảng 8,19 tỷ USD, tuy giải ngân còn chậm, nhưng cũng đạt hơn 2 tỷ USD, tăng hơn 200 triệu USD. - Kiều hối (định cư ở nước ngoài, xuất khẩu lao động làm việc ở nước ngoài,...) cũng mang về hơn 5 tỷ USD, số tiền này chủ yếu được thân nhân của kiều bào sử dụng để tiêu dùng. Chưa kể khoảng 3,3 tỷ USD là phần chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam. Một nguyên nhân nữa là do lãi suất tiền gửi ngọai tệ hiện nay ở Việt Nam là 6%/tháng, trong khi ở Mỹ là 2.5%/tháng, do sự chênh lệch đó mà có nhiều kiều bào đã gửi một số lượng kiều hối tương đối lớn về để đầu tư, nhưng lại khó thu hồi được vì chính sách ngọai hối của Việt Nam quy định khá chặt chẽ về việc đem lượng kiều hối lớn ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. - Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 khỏang 461,9 nghìn tỷ đồng, tăng +15,8%; riêng, khu vực Nhà nước chiếm 43,3% tổng vốn đầu tư, tăng: + 8,1%, cũng các chỉ tiêu trên lần lượt với Khu vực ngoài Nhà nước: 40,7% và + 24,8%, với khu vực có FDI là : 16% và +17,1%. Điều này đã làm tăng một khối lượng tiền tệ trong dân. - Nhà nước tăng nhanh dự trữ ngoại tệ bằng cách bỏ ra một khối lượng nội tệ để mua khoảng 9 tỷ USD. Thu nhập bình quân của người dân nói chung ở Việt Nam tăng khoảng 6% (tất nhiên có khoảng chênh lệch lớn giữa các nhóm dân cư). 11 2.2.3 Nguyên nhân khác: * Trước hết là việc EVN có kế hoạch tăng giá điện lên trên 8% trong năm nay (và tiếp tục tăng trong năm sau). Mặc dù có nhiều khả năng giá điện sản xuất sẽ không tăng nhưng việc điều chỉnh này vẫn sẽ ảnh hưởng đáng kể đến mặt bằng giá chung. * Tiếp đó là ảnh hưởng của việc tăng giá dầu trên thị trường quốc tế. Việt Nam hiện đang phải nhập khẩu 100% các sản phẩm xăng dầu do đó mức giá trong nước sẽ bám sát tình hình dao động giá thế giới. Năm ngoái, giá xăng trong nước đã phải điều chỉnh 6 lần, và sẽ nhạy cảm hơn trong năm nay. * Tình hình thời tiết bất thường (rét đậm, rét hại kéo dài 35 ngày ở
Tài liệu liên quan