Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới , trong nền kinh tế Việt Nam ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò quan trọng, vừa cung cấp hàng hoá trong nước, vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ra ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu và cũng là ngành nghề có lợi tức tương đối cao, đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Nhìn lại lịch sử phát triển của mình, ngành dệt may Việt Nam đã trải qua khá nhiều thăng trầm. Song đến những năm gần đây, cùng sự phát triển của ngành dệt may Thế Giới và khu vực, ngành dệt may Việt Nam thực sự bước sang thời kì phát triển mới với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt con số 5,3 tỷ USD, trong đó thị trường Mỹ 3 tỷ USD, các nước EU hơn 2 tỷ USD, ngành công nghiệp dệt may đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò “không thể thiếu” trong đời sống kinh tế - xã hội. Thành công đó có được là do ngành dệt may Việt Nam đã biết tận dụng cơ hội gồm cả nhân tố khách quan và chủ quan đem lại, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề xúc tiến thương mại, sự giúp đỡ có hiệu quả của Bộ Công Nghiệp và nỗ lực, cố gắng vươn lên của các doanh nghiệp dệt may trong toàn ngành thời gian qua.
Bên cạnh vai trò về tính kinh tế trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta không thể không nói tới yếu tố truyền thống dân tộc của ngành nghề này. Ngành dệt may Việt Nam đã có lịch sử lâu đời, từ xa xưa cách đây hàng ngàn năm, cha ông chúng ta đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông dệt vải, ươm tơ dệt lụa,. biết làm ra các sản phẩm dệt may làm đẹp cho đời. Từ những chiếc khung cửi thủ công thô sơ đến máy may đạp chân, dần dần chúng ta đã có các thiết bị dệt nhuộm, may mặc cơ khí hiện đại, điện tử, tự động hóa.Bằng chứng cho sự phát triển này là đến nay vẫn còn tồn tại nhiều làng nghề truyền thống trên nhiều vùng đất nước như: Lụa Vạn Phúc, Khăn Phùng Xá(Hà Tây); Dệt Làng Mẹo(Thái Bình); Lành Dệt Liên Tỉnh(Nam Định); Thổ Cẩm Mai Châu(Hoà Bình) Tuy vậy, phải đến cuối thế kỷ XIX, ngành dệt may mới manh nha hình thành và phát triển trong hình hài của một ngành công nghiệp. Đất nước ta là một nước phương Đông mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc không thể thiếu những ngành nghề truyền thống như gốm sứ, dệt may, điêu khắc Hơn nữa dệt may lại đang là ngành nghề mũi nhọn, dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây. Chính phủ đã phê duyệt “ Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010”. Mục tiêu là kiên quyết vượt qua thách thức để đưa dệt may Việt Nam lên tầm cao mới. Nhiệm vụ còn lại là của các nhà doanh nghiệp dệt may thuộc mọi thành phần kinh tế trên khắp mọi miền của đất nước.
Việt Nam đã gia nhập WTO, sức ép hội nhập kinh tế không cho phép ngành dệt may Việt Nam chậm chạp, chính vì thế mà chúng ta phải “tăng tốc”, “tăng tốc” để theo kịp các nước trong khu vực và trên Thế Giới. Thực tế cho thấy ngành dệt may Việt Nam hiện còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của chính nó và so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên làm thế nào để ngành dệt của chúng ta “hoà nhập nhưng không hoà tan” đang là một câu hỏi lớn cho chính phủ và các doanh nghiệp. Chúng ta đã phải rất nỗ lực mới vào được tổ chức thương mại Thế Giới WTO, trước một hoàn cảnh mới như vậy, Việt Nam nói chung và ngành dệt may Việt Nam nói riêng phải đối phó với rất nhiều thách thức đe doạ, tuy nhiên cơ hội cũng có nhiều. Tập Đoàn Dệt May Việt Nam được xem là một tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước, với các chức năng bao quát từ hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ đến kinh doanh xuất nhập khẩu các loại sản phẩm thuộc lĩnh vực dệt may. Trong bản đề án này, em xin đưa ra một số vấn đề liên quan đến đặc điểm, thực trạng và các biện pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam – VINATEX - cơ quan đàu tàu của ngành dệt may nước ta.
Lý do em chọn đề tài này là do có một phần nguyên nhân cá nhân. May mắn được sinh ra ở một quê hương làng nghề thuộc tỉnh Nam Định. Mặc dù không được trực tiếp trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải nhưng từ nhỏ đã thường xuyên được tiếp xúc với các chất liệu len, vải, thổ cẩm đã sớm giúp em hình thành một mối quan tâm sâu sắc về đề tài này. Cộng thêm niềm đam mê và cảm hứng đối với lĩnh vực thời trang trong nước và quốc tế, em đã quyết định làm bản đề án môn học này với hi vọng sẽ áp dụng được những kiến thức kinh tế đã được học trên trường lớp vào thực tế.
35 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và các biện pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam – VINATEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I- Phần mở đầu
II-Nội dung
Chương 1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Khái quát và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam
Đặc điểm ngành dệt may Việt Nam
Chưa chủ động được nguồn nguyên liệu
Gia công là chính
Công nghệ còn lạc hậu
Các nhân tố ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu hang dệt may Việt Nam
Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên ngoài
Vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu dệt may của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
1. Khái quát về Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
1.2.Chuyển đổi mô hình từ Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam sang mô hình Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
2. Khái quát về thị trường dệt may Thế Giới và các nước xuất khẩu chính của VINATEX
3.Thực trạng hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam và VINATEX những năm gần đây
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao khả năng xuất khẩu hang dệt may của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
1. Định hướng` xuất khẩu đến năm 2020
1.1 Định hướng chung đến năm 2020
1.2. Mục tiêu của VINATEX về hàng xuất khẩu đến năm 2020
2. Giải pháp nhằm thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam - VINATEX trong giai đoạn tới
2.1.Giải pháp về tài chính và vốn
2.2. Giải pháp về đầu tư
2.3. Giải pháp về thị trường
2.4. Giải pháp về quản lý điều hành
3. Một số kiến nghị với Chính phủ để đẩy mạnh khả năng xuất khẩu dệt may vào thị trường thế giới
3.1. Xúc tiến thương mại
3.2. Chính sách ưu đãi đầu tư
3.3. Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu
III- Kết luận
IV- Danh mục tài liệu tham khảo
V- Phụ lục
PHẦN MỞ ĐẦU
Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới , trong nền kinh tế Việt Nam ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò quan trọng, vừa cung cấp hàng hoá trong nước, vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ra ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu và cũng là ngành nghề có lợi tức tương đối cao, đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Nhìn lại lịch sử phát triển của mình, ngành dệt may Việt Nam đã trải qua khá nhiều thăng trầm. Song đến những năm gần đây, cùng sự phát triển của ngành dệt may Thế Giới và khu vực, ngành dệt may Việt Nam thực sự bước sang thời kì phát triển mới với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt con số 5,3 tỷ USD, trong đó thị trường Mỹ 3 tỷ USD, các nước EU hơn 2 tỷ USD, ngành công nghiệp dệt may đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò “không thể thiếu” trong đời sống kinh tế - xã hội. Thành công đó có được là do ngành dệt may Việt Nam đã biết tận dụng cơ hội gồm cả nhân tố khách quan và chủ quan đem lại, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề xúc tiến thương mại, sự giúp đỡ có hiệu quả của Bộ Công Nghiệp và nỗ lực, cố gắng vươn lên của các doanh nghiệp dệt may trong toàn ngành thời gian qua.
Bên cạnh vai trò về tính kinh tế trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta không thể không nói tới yếu tố truyền thống dân tộc của ngành nghề này. Ngành dệt may Việt Nam đã có lịch sử lâu đời, từ xa xưa cách đây hàng ngàn năm, cha ông chúng ta đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông dệt vải, ươm tơ dệt lụa,... biết làm ra các sản phẩm dệt may làm đẹp cho đời. Từ những chiếc khung cửi thủ công thô sơ đến máy may đạp chân, dần dần chúng ta đã có các thiết bị dệt nhuộm, may mặc cơ khí hiện đại, điện tử, tự động hóa...Bằng chứng cho sự phát triển này là đến nay vẫn còn tồn tại nhiều làng nghề truyền thống trên nhiều vùng đất nước như: Lụa Vạn Phúc, Khăn Phùng Xá(Hà Tây); Dệt Làng Mẹo(Thái Bình); Lành Dệt Liên Tỉnh(Nam Định); Thổ Cẩm Mai Châu(Hoà Bình)…Tuy vậy, phải đến cuối thế kỷ XIX, ngành dệt may mới manh nha hình thành và phát triển trong hình hài của một ngành công nghiệp. Đất nước ta là một nước phương Đông mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc không thể thiếu những ngành nghề truyền thống như gốm sứ, dệt may, điêu khắc… Hơn nữa dệt may lại đang là ngành nghề mũi nhọn, dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây. Chính phủ đã phê duyệt “ Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010”. Mục tiêu là kiên quyết vượt qua thách thức để đưa dệt may Việt Nam lên tầm cao mới. Nhiệm vụ còn lại là của các nhà doanh nghiệp dệt may thuộc mọi thành phần kinh tế trên khắp mọi miền của đất nước.
Việt Nam đã gia nhập WTO, sức ép hội nhập kinh tế không cho phép ngành dệt may Việt Nam chậm chạp, chính vì thế mà chúng ta phải “tăng tốc”, “tăng tốc” để theo kịp các nước trong khu vực và trên Thế Giới. Thực tế cho thấy ngành dệt may Việt Nam hiện còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của chính nó và so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên làm thế nào để ngành dệt của chúng ta “hoà nhập nhưng không hoà tan” đang là một câu hỏi lớn cho chính phủ và các doanh nghiệp. Chúng ta đã phải rất nỗ lực mới vào được tổ chức thương mại Thế Giới WTO, trước một hoàn cảnh mới như vậy, Việt Nam nói chung và ngành dệt may Việt Nam nói riêng phải đối phó với rất nhiều thách thức đe doạ, tuy nhiên cơ hội cũng có nhiều. Tập Đoàn Dệt May Việt Nam được xem là một tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước, với các chức năng bao quát từ hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ đến kinh doanh xuất nhập khẩu các loại sản phẩm thuộc lĩnh vực dệt may. Trong bản đề án này, em xin đưa ra một số vấn đề liên quan đến đặc điểm, thực trạng và các biện pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam – VINATEX - cơ quan đàu tàu của ngành dệt may nước ta.
Lý do em chọn đề tài này là do có một phần nguyên nhân cá nhân. May mắn được sinh ra ở một quê hương làng nghề thuộc tỉnh Nam Định. Mặc dù không được trực tiếp trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải nhưng từ nhỏ đã thường xuyên được tiếp xúc với các chất liệu len, vải, thổ cẩm đã sớm giúp em hình thành một mối quan tâm sâu sắc về đề tài này. Cộng thêm niềm đam mê và cảm hứng đối với lĩnh vực thời trang trong nước và quốc tế, em đã quyết định làm bản đề án môn học này với hi vọng sẽ áp dụng được những kiến thức kinh tế đã được học trên trường lớp vào thực tế.
II- NỘI DUNG
Chương 1. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUÂT KHẨU DỆT MAY
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1.Khái quát và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam:
1.1. Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam :
Ngành dệt may Việt Nam là một trong những ngành có lịch sử phát triển lâu đời ở Việt Nam. Đặc biệt, ngành dệt sợi đã có từ lâu và phát triển mạnh trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ. Trước khi thưc dân Pháp xâm lược
Đông Dương đã tồn tại nhiều nhà sản xuất vải tại Việt Nam sử dụng sợi nhập khẩu. Thực dân Pháp đã tăng thuế nhập khẩu sợi làm cho sản xuất vải tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Nhưng trong thời kỳ này nhiều nhà máy dệt hiện đại do Pháp đầu tư đã được thành lập. Năm 1889, nhà máy dệt đầu tiên tại Việt Nam được Pháp xây dựng tại Nam Định, tiếp theo là năm 1894 tại Hà Nội và sau đó là tại Hải Phòng. Năm 1912, ba nhà máy hợp nhất lại thành “Công ty dệt vải Kinh Đông”. Chính phủ Thực dân Pháp thu được nhiều lợi nhuận từ việc kinh doanh độc quyền ngành này.
Sau đại chiến thế giới thứ hai, ngành dệt may Việt Nam có những bước tiến đáng kể. Trong thời gian này, vai trò của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước là rất quan trọng, kế hoạch và việc sản xuất hàng dệt may được thực hiện theo quy trình: trước tiên, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước giao chỉ tiêu cho các doanh nghiệp may về kế hoạch sản xuất, số lượng, giá. Các doanh nghiệp dệt may căn cứ vào đó tính số lượng nguyên liệu đầu vào trình lên Uỷ ban Kế hoạch về các doanh nghiệp nhuộm có thể đáp ứng yêu cầu. Sau đó, căn cứ vào những điều kiện sau này, Uỷ ban Kế hoạch lại giao chỉ tiêu sản lượng cho các doanh nghiệp nhuộm, ấn định về giá và thời gian giao hang. Dựa vào giá cả và ngày giao hang, các doanh nghiệp nhuộm lại tính lượng sợi cần thiết rồi trình Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước về nhà sản xuất sợi có thể sản xuất loại sợi theo yêu cầu. Cuối cùng, Uỷ ban Kế hoạch nhà nước giao chỉ thị cho các doanh nghiệp sợi sản xuất lượng sợi cần thiết như kế hoạch được trình như trên.
Trong nền kinh tế kế hoạch, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt, nhuộm và may rất mật thiết. Xét trên toàn ngành, mối quan hệ trực tiếp, lâu dài giữa các doanh nghiệp và sự chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp đã được duy trì khá tốt. Tuy nhiên, mối quan hệ khăng khít cùng việc chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp khác ngành đã có sự thay đổi lớn từ sau khi có Hiệp định thương mại gia công uỷ thác (Hiệp định ngày 19/5) được ký kết giữa Chính phủ Liên Xô và Chính phủ Việt Nam vào năm 1986. Hiệp định này đã làm giảm hẳn nhu cầu sản phẩm đối với các doanh nghiệp nhuộm và dệt trong nước và mối quan hệ mật thiết giữa các doanh nghiệp cũng bị rạn nứt. Từ mối quan hệ mật thiết trước đây trở thành quan hệ đối thủ cạnh tranh của nhau. Người ta cho rằng đó là nguyên nhân lịch sử chủ yếukhiến cho sự phân ngành trong ngành dệt - may Việt Nam chưa phát triển.
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, đặc biệt bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Vào đầu những năm 90, các nước Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản trở thành thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam , và từ năm 1993 khi Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và EU hình thành thì xuất khẩu dệt may tăng nhanh. Xem xét sự thay đổi của tổng giá trị sản lượng hang dệt may từ năm 1995 đên năm 1999 cho thấy, trong 5 năm, tổng giá trị sản lượng tăng khoảng 57%, như vậy tỷ lệ tăng trưởng thực tế bình quân khoảng 12%/năm.
1.2. Đặc điểm ngành dệt may Việt Nam:
Thứ nhất: chưa chủ động được nguồn nguyên liệu:
Nguồn nguyên phụ liệu cung cấp đầu vào cho ngành dệt may Việt Nam chủ yếu phải nhập từ nước ngoài. Tỷ lệ nhập khẩu quá cao khiến giá thành hàng dệt may Việt Nam cao hơn đối với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực từ 10 đến 15%.
Ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua đã có những bước tiến đáng kể, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu luôn đạt 25-30%/năm, tạo công ăn viêc làm cho khoảng hơn 25 triệu lao động trực tiếp và lao động gián tiếp trong sản xuất như trồng bông, trồng dâu nuôi tằm. Thế nhưng việc sản xuất nguyên phụ liệu lại chưa được chú trọng đúng mức đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của ngành trong thời gian qua. Đây là một nghịch lý đối với một nước nông nghiệp có ngành dệt may đã trở thành ngành truyền thống hang nghìn năm nay như Việt Nam.
Ngành dệt may nước ta đã có sự tập trung các xí nghiệp mang quy mô lớn hàng nghìn công nhân thì lại “quên” không đầu tư cho ngành sản xuất nguyên phụ liệu. Đối với ngành này khách hàng yêu cầu rất tỷ mỷ từng khâu thiết kế cho từng cái khuy, màu sắc và cỡ từng loại chỉ màu.
Tình hình sản xuất nguyên phụ liệu năm 2005
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Nguyên phụ liệu
1. Bông xơ
1000 tấn
30
2. Xơ sợi tổng hợp
1000 tấn
100
3. Sợi
1000 tấn
4. Vải lụa
triệu m2
Tỷ lệ nội địa hoá (%)
Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam
Nước ta có một lực lượng lao động lớn về số lượng nhưng đối với ngành này đã chưa tận dụng hết được thế mạnh này, trong khi đó Trung Quốc - nước láng giềng và cũng là một cường quốc xuất khẩu hàng dệt may thế giới – hàng năm sản xuất gần một vạn sản phẩm phụ liệu cho ngành may.
Thứ hai: sử dụng hình thức gia công là chính:
Phần lớn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc được thực hiện dưới dạng sản xuất lưu thông theo hợp đồng gia công uỷ thác (gia công). Do các doanh nghiệp Việt Nam chỉ thực hiện 3 công đoạn là cắt (cut), may (make), hoàn thiện (trim) nên hình thức sản xuất lưu thông này được gọi là CMT. Theo hình thức này toàn bộ nguyên phụ liệu đêù do khách hang nước ngoài cung cấp cho các doanh nghiệp may Việt Nam.
Sơ đồ tự sản xuất, lưu thông hàng may mặc
Thiết kế sản phẩm
Lựu chọn nhà cung cấp
Mua nguyên phụ liệu
Cắt, may, tô điểm (CMT)
Xuất khẩu
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường áp dụng 2 hình thức xuất khẩu, ngoài CMT là hình thức “xuất khẩu hang hoá theo điều kiện FOB (Free On Board)”. Hình thức này trái với CMT, theo hình thức này, chúng ta tự mua nguyên phụ liệu rồi bán sản phẩm cho khách hàng nước ngoài.
Thứ ba: Công nghệ còn lạc hậu:
Trong nhiều lý do dẫn đến yếu kém về năng lực sản xuất của ngành may Việt Nam, công nghệ là tác nhân chủ yếu. Khả năng tự động hoá trong quá trình sản xuất trong các doanh nghiệp may chỉ đạt mức độ trung bình, công nghệ cắt và may còn lạc hậu. Công nghệ phục vụ các công đoạn phụ trợ, khâu giặt còn bất cập; công tác thiết kế, công nghệ tạo mẫu của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu đã làm hạn chế đến chất lượng, mẫu mã, và chủng loại sản phẩm.
Tính đến năm 2006, Tập đoàn Dệt may Việt Nam có 126 xưởng may với 78.000 thiết bị may, cắt và hoàn tất các loại, trong đó các xưởng trình độ tiên tiến chiếm 20%, xưởng trình độ trung bình khá chiếm 70% và xưởng trình độ trung bình chiếm 10%. Một số xưởng thuộc công ty may Việt Tiến, công ty may Nhà Bè, công ty may Đức Giang, công ty may Phương Đông… đã có sử dụng phần mềm trong sáng tác mẫu và thiết bị cắt vải của Mỹ, Đức…Ngoài ra còn có khoảng 200 xưởng may thuộc doanh nghiệp Nhà nước khác có trình độ trung bình khá và trung bình.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuẩt khẩu hàng dệt may Việt Nam:
1.3.1. Các nhân tố bên trong:
Có thể nói về ngành dệt may nói riêng, có rất nhiều các yếu tố bên trong một doanh nghiệp có ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, tuy nhiên ở đây, với giơí hạn về chiều dài của bản đề án này em chỉ xin đưa ra ba nhân tố chính, đó là: giá cả các yếu tố đầu vào, giá cả sản phẩm, công nghệ:
Giá cả các yếu tố đầu vào: Để tiến hành sản xuất , ngành dệt may cần các yếu tố đầu vào. Giá cả các yếu tố đầu vào là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm. Muốn hạ sía thành sản phẩm thì trước tiên phải tìm được các nguồn đầu vào với giá rẻ:
Nguyên phụ liệu: Như đã nói ở trên, nguyên phụ liệu ngành đến 90% là phải nhập khẩu. Phần nguyên phụ liệu mà Việt Nam có thể tự cung cấp cho ngành dệt may là rất thấp và chất lượng kém. Phần nguyên phụ liệu phải nhập khẩu với giá cao này là nguyên làm giá cả của hàng hoá dệt may Việt Nam cao hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác.
Lao động: Có thể nói một trong những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi nhất cho ngành dệt may Việt Nam là chi phí lao động rẻ. Một đất nước với hơn 80 triệu dân là nguồn cung cấp lao động dồi dào cho ngành này. Ngoài những cán bộ có trình độ kỹ thuật thì một số lượng lớn lao động phổ thông vẫn được ngành dệt may Việt Nam hiện nay sử dụng. Ngành dệt may Việt Nam đang tận dụng đặc điểm này để hạ giá thành sản phẩm.
Giá cả sản phẩm: Dù xét về phía cung hay cầu thì giá cả bao giờ cũng là yếu tố ảnh hưởng có tính chất quyết định nhất tới sản lượng hàng dệt may bán ở trong nước hay nước ngoài. Xem xét với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu: giá cả hàng dệt may Việt Nam vẫn thuộc vào loại cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới như: Trung Quốc, Ấn Độ… Nguyên nhân chính của tình trạng này là do hàng dệt may của Việt Nam chưa tự túc được nguồn nguyên phụ liệu và sản xuất với các trang thiết bị còn yếu kém. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, hai yếu tố hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm vẫn là điều kiện tiền đề cho hàng dệt may của Việt Nam có chỗ đứng trên thế giới.
Công nghệ: Trong kinh doanh hiện đại, công nghệ là cách thức để cắt giảm chi phí doanh nghiệp. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và nỗ lực trong việc đầu tư, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, song nhìn chung, công nghệ thiết bị của ngành dệt may vẫn còn lạc hậu. Thêm nữa công tác quản lý kỹ thuật của ngành còn thấp nên đã ảnh hưởng tới năng lực sản xuất, chát lượng và giá thành sản phẩm khi xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài:
Năm 2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 151 của Tổ chức Thương Mại thế giới WTO, sự kiện này đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội trong kinh doanh hàng hoá nói chung và nhất là hàng hoá xuất khẩu dệt may, nhưng cũng có không ít những khó khăn mà chúng ta cần tháo gỡ. Khi Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may ra thị trường nước ngoài, sẽ có rất nhiều yếu tố môi trường tác động đến kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này:
Các hạn ngạch nhập khẩu và chính sách nhà nước đối với hàng nhập khẩu của các nước nhập khẩu: Đây là yếu tố đầu tiên mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói chung và VINATEX nói riêng cần tìm hiểu trước khi muốn xuất khẩu hàng sang bất kỳ một quốc gia nào để điều chỉnh cho phù hợp. Sự kiên “quota dệt may” đã có nhiều tác động thuận lợi cho hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam .
Thu nhập: thu nhập là một yếu tố ảnh hưởng tới lượng cầu của một loại hàng hoá. Dựa vào thu nhập mà người ta phân chia hàng hoá ra làm hai loại: hàng hoá thông thường và hàng hoá cấp thấp. Nếu nhu cầu về một loại hàng hoá giảm khi thu nhập giảm, thì hàng hoá đó gọi là hàng hoá thông thường. Nếu nhu cầu về một loại hàng hoá tăng khi thu nhập giảm, thì hàng hoá này được gọi là hàng hoá cấp thấp.
Một người được cho là ăn mặc đẹp hay ít ra là biết cách ăn mặc thì điều đầu tiên là họ phải có một mức thu nhập kha khá, sau đó sẽ là các yếu tố về tính thẩm mỹ. Các yếu tố này ảnh hưởng rất nhiều đến sức mua của người dân trong một quốc gia. Hàng hoá dệt may Việt Nam chủ yếu là phục vụ cho những khách hàng co mức thu nhập trung bình khá.
Thị hiếu và phong tục tập quán của quốc gia nhập khẩu: Yếu tố rõ ràng nhất quyết định tới nhu cầu khách hàng là thị hiếu. Qua thực tế, chúng ta có thể nói rằng: hàng dệt may Việt Nam có thể đáp ứng được những khách hàng khó tính nhập khẩu. Một phương trâm xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là “ việc kinh doanh có tính địa phương”. Có nghĩa là khi xuất khẩu bất kỳ một sản phẩm dệt may nào thì các doanh nghiệp cũng đều quan tâm tới sở thích của khách hàng và phong tục tập quán ở các thị trường khác nhau. Ví dụ như: ở thị trường EU, các sản phẩm của chúng ta luôn cố gắng hoàn thiện ở các khâu chất lượng, mẫu mã, thiết kế để đáp ứng tốt nhu cầu của những khách hàng khó tính này.
2. Vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam:
Việt Nam đang là nước ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đặc biệt với đường lối chính sách kinh tế mở, ưu tiên chú trọng tới phát triển xuất khẩu của nhà nước ta đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của ngành dệt may. Ngành dệt may đã từng bước khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong tiến trình hội nhập kinh tế, nhất là về xuất khẩu.
Hiện nay, đối với Việt Nam, ngành dệt may có vị trí quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Hiện nay ngành này đang thu hút trên 3 triệu lao động, trong đó 80% là nữ, lao động trong công nghiệp dệt may chiếm khoảng 15% lao động công nghiệp cả nước. Như vậy việc thu hút nhiều lao động trong dệt may có ý nghĩa to lớn đối với bối cảnh nước ta hiện nay. Từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì lực lượng lao động thất nghiệp ở nước ta rất lớn, đời sống nhân dân nhiều nơi còn rất khó khăn. Việc thu hút lao động cho ngành dệt may đã góp phần nâng cao đời sống dân cư, góp phần tạo sự ổn định tình hình kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, vùng và lãnh thổ theo hướng tích cực.
Trong 10 ngành công nghiệp xuất khẩu lớn nhất nước ta thì công nghiệp dệt may đứng thứ hai sau dầu thô. Trong thập kỷ 90, giá trị xuất khẩu của ngành tăng 27,3%/năm từ 178,7 riệu USD năm 1990 lên 1,892 triệ USD năm 2000, giá trị xuất khẩu ngành dệt may chiếm 18% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trong cả nước.
Công nghiệp dệt may phát triển kéo theo và thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp khác. Trong đó có ngành cung cấp nguyên liệu và các ngành sử dụng sản phẩm của ngành dệt may.
Đối với xuất khẩu, xuất khẩu dệt may mang lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng để nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu cần thiết để phục vụ sản xuất và thực hiện các mục tiêu của quá t