Chuyên đề Thực trạng và giải pháp đầu tư sản xuất thức ăn gia súc của Công ty Nông Sản Bắc Ninh

Trong những năm cuối của thế kỉ XX, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về ngành chăn nuôi đã đạt được bước tiến đáng kể nhất là tiến bộ về công tác tạo giống và nâng cao chất lượng con giống, sử dụng thức ăn công nghiệp trong chăn nuôi đã đóng vai trò quan trọng nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành chính trong sản xuất nông nghiệp. Kinh tế càng phát triển, thì con người ngày càng có thu nhập cao dấn đến nhu cầu về sản phẩm của ngành chăn nuôi ngày càng tăng. Để thực hiện được được điều đó cần áp dụng hàng loạt các giải pháp, một trong các giải pháp đó là cung cấp thức ăn cho chăn nuôi, nhất là thức ăn chế biến theo phương pháp công nghiệp. Công ty Nông Sản Bắc Ninh là một đơn vị nhỏ, có quy mô và công suất nhỏ (5 tấn/giờ). Do đó công ty phải chú trọng đến quá trình đầu tư để đứng vững và phát triển. Xuất phát từ vấn đề trên em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp đầu tư sản xuất thức ăn gia súc của Công ty Nông Sản Bắc Ninh”. Do thời gian và trình độ có hạn nên chuyên đề của em không tránh khỏi thiếu xót và có những hạn chế, em mong nhận được sự góp ý , chỉ bảo của các thầy giáo, cô giáo và các bạn để bản chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Nhân đây em xin chân thành cảm ơn cô giáo Phan Thu Hiền đã dạy dỗ, hướng dẫn, chỉ bảo em hoàn thành chuyên đề này.

doc54 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp đầu tư sản xuất thức ăn gia súc của Công ty Nông Sản Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm cuối của thế kỉ XX, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về ngành chăn nuôi đã đạt được bước tiến đáng kể nhất là tiến bộ về công tác tạo giống và nâng cao chất lượng con giống, sử dụng thức ăn công nghiệp trong chăn nuôi đã đóng vai trò quan trọng nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành chính trong sản xuất nông nghiệp. Kinh tế càng phát triển, thì con người ngày càng có thu nhập cao dấn đến nhu cầu về sản phẩm của ngành chăn nuôi ngày càng tăng. Để thực hiện được được điều đó cần áp dụng hàng loạt các giải pháp, một trong các giải pháp đó là cung cấp thức ăn cho chăn nuôi, nhất là thức ăn chế biến theo phương pháp công nghiệp. Công ty Nông Sản Bắc Ninh là một đơn vị nhỏ, có quy mô và công suất nhỏ (5 tấn/giờ). Do đó công ty phải chú trọng đến quá trình đầu tư để đứng vững và phát triển. Xuất phát từ vấn đề trên em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp đầu tư sản xuất thức ăn gia súc của Công ty Nông Sản Bắc Ninh”. Do thời gian và trình độ có hạn nên chuyên đề của em không tránh khỏi thiếu xót và có những hạn chế, em mong nhận được sự góp ý , chỉ bảo của các thầy giáo, cô giáo và các bạn để bản chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Nhân đây em xin chân thành cảm ơn cô giáo Phan Thu Hiền đã dạy dỗ, hướng dẫn, chỉ bảo em hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG I- Lý luận chung về đầu tư 1.1. Đầu tư là gì? Thuật ngữ “đầu tư” có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, “sự hi sinh”. Từ đó, có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Tất cả những hành động bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động đều nhằm mục đích chung là thu được lợi ích nào đó (về tài chính, về cơ sở vật chất, về nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức...) trong tương lai, lớn hơn những chi phí đã bỏ ra. Và vì vậy, nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra thì các hành động này đều được gọi là đầu tư. Nguồn lực dùng để đầu tư bao gồm : vốn, lao động, đất đai, công nghệ, các nguồn lực này được kết hợp với nhau và đưa vào trong quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm tạo ra các tài sản vật chất, phi vật chất. Kết quả của hoạt động dầu tư phải cao hơn những chi phí đã bỏ ra. Về mặt thời gian hoạt động đầu tư diễn ra ở hiện tại và kết quả từ hoạt động này ở trong tương lai, đối tượng đầu tư thì rất rộng bao gồm cả tài sản vật chất, tài sản phi vật chất, đầu tư vào TSCĐ của xã hội và tài sản lâu bền. Ngoài cách định nghĩa trên thì còn rất nhiều khái niệm đầu tư khác nữa tuỳ theo góc độ người xem xét. Chẳng hạn đầu tư đứng trên giác độ nền kinh tế là sự hi sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. Còn ở góc độ tiêu dùng thì đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùg ở hiện tại nhằm thu hút được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Hoặc đầu tư ở trên góc độ tài chính là một chuỗi những hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời 1.2.Vai trò của đầu tư 1.1.1.Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước * Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế Về mặt cầu : Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế ( từ 24 – 28% ). Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo và dẫn đến giá và các đầu vào của đầu tư cũng tăng theo. Về mặt cung : Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mìh lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. *Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế Với việc tăng đầu tư sẽ tăng công ăn việc làmdẫn đến giảm thất nghiệp, nâng cao đời sống của nhân dân, do đó góp phần làm giảm tệ nạn xã hội...Nhưng bên cạnh dó thì do tăng đầu tư nộp tiền chi ra nhiều dẫn đến lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực xã hội. Giảm đầu tư : hạn chế được lạm phát, đời sống nhân dân ổn định, nhưng việc đầu tư ngược lại cũng làm giảm công ăn việc làm, tình trạng thất nghiệp tăng, làm ảnh hưởng tiêu cực xã hội. * Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy : muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bìmh thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 – 25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Hệ số ICOR lầ hệ số giữa tỷ lệ vốn đầu tư xã hội so với GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP ICOR = Vốn đầu tư Mức tăng GDP Từ đó suy ra: Mức tăng GDP = Vốn đầu tư ICOR Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 – 7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn dược sử dụng nhiều để thay thế lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 – 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhièu nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Ở Việt Nam tính bình quân giai đoạn ( 1995 – 1999 ) thì tỷ lệ vốn đầu tư xã hội so với GDP đạt 28,2% tốc độ tăng trưởng GDP theo giá so sánh là 7,5% và hệ số ICOR là 3,8 lần. *Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn ( từ 9 đến 10% ) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 – 6% là râtds khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị,... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. *Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ đất nước Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.Công nghệ về nội dung gồm 4 yếu tố : trang thiết bị, kỹ năng của con người, thông tin, tổ chức thể chế. Do đó xét về nội dung thì để tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước cần phải đầu tư mua sắm trang thiết bị, thu thập thông tin, đào tạo nguồn nhân lực... Xét về phương thức để có công nghệ chúng ta cũng thấy có hai cách đó là tự nghiên cứu triển khai hoặc đi mua, cả hai cách đều phải yêu cầu có vốn để đầu tư. Như vậy, đầu tư có ảnh hưởng hay làm tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. 1.1.2. Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đầu tư tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào, trong quá trình hoạt động các cơ sở này hao mòn, hư hỏng và phải đổi mới đòi hỏi đầu tư để duy trì sự tồn tại, phát triển của mỗi cơ sở. Đầu tửtong các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ có vai rò quan tọng quyết định sự thành bại của cơ sở, tạo điều kiện nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm do việc đầu tư làm tăng hiệu quả sản xuất, hạ giá thành sản phẩm góp phần làm tăng lợi nhuận cho đơn vị. II. Lý luận đầu tư trong doanh nghiệp 2.1 Khái niệm đầu tư trong doanh nghiệp Đầu tư trong doanh nghiệp là một bộ phận cơ bản của đầu tư, là hoạt động chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác nhằm duy trì và tạo ra những tài sản mới cho doanh nghiệp, tạo thêm việc làm nâng cao đời sống cho các thành viên trong đơn vị, trong doanh nghiệp. Nói cách khác : đầu tư trong doanh nghiệp là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để duy trì, tăng cường mở rộng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp. 2.2 Vai trò của đầu tư trong doanh nghiệp Trong phần này ta chỉ xét đến vai trò của đầu tư phát triển – là việc bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư phát triển đối với nền kinh tế nó là nhân tố quan trọng để phát triền kinh tế và là chìa khoá của sự tăng trưởng. Còn đối với các doanh nghiệp đầu tư quyết định cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Từ việc tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của doanh nghiệp, mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị, thưch hiện công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Sau đó để duy trì hoạt động bình thường của các cơ sở sản xuất này cần phải thường xuyên tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay thế mới các cơ sở sản xuất đã hao mòn, hư hỏng. Đổi mới để thích ứng với yêu cầu của sự phát triển khoa học kỹ thuật và thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Đặc biệt hiện nay khi nước ta đang đứng trước yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế thì vai trò của đầu tư trong doanh nghiệp là phải làm sao để nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế của doanh nghiệp để doanh nghiệp nước ta có thể đứng vững được trong thị trường nội địa và vươn ra thị trươngf quốc tế. Với những nội dung sau : + Giảm chi phí sản xuất dẫn đến giảm giá thành sản phẩm + Nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng năng lực sản xuất + Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp + Nâng cao chất lượng của người lao động trong doanh nghiệp Tất cả các mục tiêu trên đều hướng tới mục tiêu dài hạn đó là tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. 2.3 Nội dung của đầu tư trong doanh nghiệp Hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật và thực hiện các chi phí gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tái sản xuất thông qua các hình thức xây dựng nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị, tiến hành công tác xây dựng cơ bản khác. Thực hiện chi phí gắn liền với sự ra đời và hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật đó. Do đó ta có thể nói đầu tư trong doanh nghiệp gồm những nội dung sau : đầu tư vào máy móc thiết bị, đầu tư nguồn nhân lực, đầu tư hàng dự trữ, đầu tư đổi mới công nghiệp, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, đầu tư vào hoạt động marketing, đầu tư vào các tài sản vô hình khác. Đầu tư phát triển là hoạt động cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Qui mô, chất lượng của đầu tư phát triển ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Nếu doanh nghiệp lựa chọn được bước đi và chiến lược đầu tư phát triển hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ổn định, bền vững của doanh nghiệp trong tương lai. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay với đặc trưng nổi bật nhất là tính cạnh tranh ngày càng quyết liệt đã buộc các doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo và thích ứng với thị trường. Doanh nghiệp phải luôn luôn biết tự đổi mới, tự hoàn thiện mình. Nâng cao chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ hàng đầu đối với mỗi doanh nghiệp để có thể tồn tại và phát triển. Chất lượng sản phẩm là mức độ thoả mãn nhu cầu sản phẩm của khách hàng. Trong thời đại ngày nay làm thế nào để đáp ứng nhu cầu khách hàng đang là câu hỏi khó nhất đối với nhà quản trị của mỗi doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu của mình là lợi nhuận hoặc thị phần...thì doanh nghiệp có thể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau. Tuy nhiên giải pháp quan trọng và tối ưu được nhiều doanh nghiệp quan tâm đó là nâng cao chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng sẽ chỉ tiêu dùng sản phẩm nếu như họ cảm thấy thoả mãn nhu cầu nào đó của mình. Vậy làm thế nào để doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng? câu trả lời đó là nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm bắt buộc doanh nghiệp phải đầu tư cho phát triển. Thứ nhất, đầu tư cho phát triển là hoạt động doanh nghiệp bỏ vốn ra để nâng cấp, sửa chữa hoặc mua sắm máy móc thiết bị, máy móc, dây chuyền công nghệ. Việc làm này sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng năng lực sản xuất, sản xuất ra sản phẩm với chất lượng ngày càng cao, đa dạng hoá các sản phẩm với kích thước, mẫu mã, chủng loại phong phú. Thứ hai, đầu tư phát triển trong doanh nghiệp chính là hoạt động nhằm phát triển nguồn nhân lực. Trong chiến lược đầu tư phát triển nguồn nhân lực luôn là vấn đề được quan tâm. Nâng cao trình độ quản lý của nhà quản trị trong doanh nghiệp, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân là một việc làm thiết yếu để góp phần tạo ra năng suất lao động cao và chất lượng sản phẩm tốt. Thứ ba, thông qua hoạt động đầu tư phát triển, công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp được nâng lên. Bằng các hình thức như quảng cáo, xúc tiến bán hàng...doanh nghiệp tạo nên cầu nối giữa sản phẩm và khách hàng, giúp cho khách hàng hiểu biết về sản phẩm từ đó làm nảy sinh nhu cầu mua sản phẩm để tiêu dùng. Và thông qua các hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán hàng doanh nghiệp hiểu biết hơn nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Thứ tư, phát triển tài sản vô hình. Tại sao tăng giá trị tài sản vô hình lại góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm? Như đã trình bày ở trên chất lượng sản phẩm là mức độ thoả mãn nhu cầu sản phẩm của khách hàng. Khi giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp được nâng lên đồng nghiă với thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp cũng được khẳng định trên thị trường. Người tiêu dùng có thể xuất phát từ lý do cá nhân ví dụ như tò mò, muốn sang trọng...thì họ sẽ tiêu dùng sản phẩm. Bởi vì theo họ tiêu dùng những sản phẩm có thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá trên thị trường sẽ giúp họ tự tin hơn, có thể ngang bằng người khác ở một mặt nào đó. III. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả, hiệu quả của đầu tư trong doanh nghiệp. 3.1 Kết quả của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp Kết quả của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp được thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã thực hiện, các tài sản cố định huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh phục vụ tăng thêm. 3.1.1 Khối lượng vốn đầu tư thực hiện Khối lượng vốn đầu tư thực hiện là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác xây lắp, chi phí cho công tác mua sắm thiết bị và các chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt. Để tính khối lượng vốn đầu tư thực hiện thì phải tuỳ thuộc vào tính chất, quy mô, thời gian của từng dự án đầu tư. Đối với những dự án đầu tư có quy mô lớn, thời gian đầu tư thực hiện dài thì vốn đầu tư được tính là vốn đã thực hiện khi từng hoạt động hoặc từng giai đoạn của mỗi dự án đã hoàn thành. Đối với những dự án đầu tư có quy mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn thì số vốn đã chi được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện khi toàn bộ các công việc của quá trình thực hiện đầu tư lết thúc. Đối với những dự án đầu tư do Ngân sách tài trợ, để số vốn đã chi được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện thì các kết quả của quá trình đầu tư phải đạt được các tiêu chuẩn và được tính theo các phương pháp riêng đối với từng công việc cuả dự án. 3.1.2 Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm, hàng hoá hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho xã hội đã được ghi trong dự án đầu tư) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động ngay được. Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự án đầu tư. Tài sản cố định huy động có thể là huy động bộ phận và huy động toàn bộ. Huy động bộ phận là việc huy động từng đối tượng, từng hạng mục xây dựng của công trình vào hoạt động ở những thời điểm khác nhau do thiết kế quy định. Huy động toàn bộ là huy động cùng một lúc tất cả các đối tượng, hạng mục xây dựng không có khả năng phát huy tác dụng độc lập hoặc dự án không dự kiến cho phát huy tác dụng độc lập đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm và sãn sàng đi vào sử dụng ngay. Các tầi sản cố định được huy động và năng lực sản xuất tăng thêm là sản phẩm cuối cùng của các công cuộc đầu tư, chúng có thể được biều hiện bằng tiền hoặc bằng hiện vật. 3.2 Hiệu quả đầu tư trong doanh nghiệp 3.2.2 Hiệu quả tài chính Hiệu quả tài chính (Etc) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ trên cơ sở số vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung. Hiệu quả tài chính được biểu hiện bằng công thức sau: Các kết quả mà cơ sở thu được do thực hiện đầu tư Etc = Số vốn đầu tư mà cơ sở đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên Etc được coi là có hiệu quả khi Etc > Etco là chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức hoặc các kỳ khác mà cơ sở đã đạt được chọn làm cơ sỏ so sánh, hoặc của đơn vị khác đã đạt tiêu chuẩu hiệu quả. Các kết quả do hoạt động đầu tư đem lại cho cơ sở rất đa dạng, do đó hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư còn được phản ánh ở hệ thống các chỉ tiêu khác như: mức tăng thêm lợi nhuận tính cho một đơn vị vốn dầu tư, doanh thu tăng thêm tính cho một đơn vị vốn đầu tư, nộp ngân sách tăng thêm tính cho một đơn vị vốn đầu tư... Nếu tính cho từng dự án, hiệu quả tài chính được phản ánh ở các chỉ tiêu sau: tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư, tỷ suất sinh lời vốn tự có, số vòng quay của vốn lưu động, thời hạn thu hồi vốn của dự án, hệ số hoàn vốn nội bộ IRR, tổng lợi nhuận thuần NPV, tỷ lệ lợi ích trên chi phí B/C... Trong đó, mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và được sử dụng trong những điều kiện nhất định. Hầu hết các chỉ tiêu sử dụng để tính toán đều biểu hiện bằng tiền, mà tiền lại có giá trị về thời gian nên khi sử dụng tính bằng tiên phải đảm bảo tính so sánh về mặt giá trị thời gian. 3.2.3 Hiệu quả kinh tế xã hội Hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và xã hội đã phải bỏ ra khi thực hiện đầu tư. Những lợi ích mà xã hội thu được chính là sự đáp ứng của đầu tư đối với việc thực hiện các mục tieeu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những sự đáp ứng này có thể được xem xét mang tính định tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước, góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh...hoặc đo lường bằng cách tính toán định lượng như mức tăng thu cho Ngân sách nhà nước, mức gia tăng số người có việc làm, mức tăng thu ngoại tệ... Chi phí mà xã hội phải gánh chịu khi một công cuộc đầu tư được thực hiện bao gồm toàn bộ các tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động mà xã hội dành cho đầu tư thay vì sử dụng vào các công việc khác trong tương lai không xa. Như vậy, hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư chính là kết quả so sánh ( có mục đích ) giữa cái giá mà xã hoọi phải trả cho việc sử dụng các nguồn lực sẫn có của mình một cách tốt nhất và lợi ích do đầu tuư tạo ra cho toàn bộ nền kinh tế chứ không chỉ cho riêng cơ sở sản xuất nào. III. Đặc điểm của hoạt động đầu tư trong ngành nông nghiệp chế biến Nước ta là một
Tài liệu liên quan