Chuyên đề Thực trạng và giải pháp hợp đồng dân sự vô hiệu

Trong cuộc sống ngày nay, hợp đồng dân sự ( HĐDS ) là giao kết được thực hiện với một số lượng rất lớn, thông dụng và phổ biến; Hơn thế nữa, trong thực tiễn giao lưu dân sự, nhu cầu về giao kết hợp đồng dân sự đang trở thành vấn đề cấp thiết, phong phú về nội dung, đa dạng về đối tượng. Hàng ngày có vô số các hợp đồng dân sự được thoả thuận ký kết, từ những hợp đồng sinh hoạt đơn giản thường thấy , như : gửi giữ chiếc xe đạp, mua bán chiếc Tivi, cái tủ lạnh, xe máy, vay mượn .

doc23 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1755 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp hợp đồng dân sự vô hiệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chương dẫn nhập 1. Lý do, mục đích, ý nghĩa khoa học của tiểu luận : Trong cuộc sống ngày nay, hợp đồng dân sự ( HĐDS ) là giao kết được thực hiện với một số lượng rất lớn, thông dụng và phổ biến; Hơn thế nữa, trong thực tiễn giao lưu dân sự, nhu cầu về giao kết hợp đồng dân sự đang trở thành vaỏn đề cấp thiết, phong phú về nội dung, đa dạng về đối tượng. Hàng ngày có vô số các hợp đồng dân sự đưụùc thoả thuận ký kết, từ những hợp đồng sinh hoùat đơn giản thửụứng thấy , như : gửi giữ chiếc xe đạp, mua bán chiếc Tivi, cái tủ lạnh, xe máy, vay mượn ... , đến những hợp đồng phức tạp: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở; hợp đồng dịch vụ về các đối tượng phức tạp, là thành quả của kyỷ thuật công nghệ cao, chẳng hạn: thoả thuận về dịch vụ mang bầu thuê, tặng cho ADN, trứng; những hợp đồng qua fax, thư điện tử ... Song vấn đề ở đây là tính pháp lý của các thoả thuận giao kết trên, là giá trị hiệu lực của các hợp đồng dân sự này có được bao đảm thi hành; Nhìn chung, bên cạnh số lượng lớn HĐDS phù hợp với qui định pháp luật , có giá trũ thi hành, thực trạng còn nhiều HĐDS vô hiệu vẫn đang tồn tại, là một vấn đề bức xúc, tình trạng HĐDS được giao kết giả tạo, lừa dối nhau, thực hiện mua bán, tặng cho tài sản thuộc sở hữu của người khác, mua bán, tặng cho hàng hoá thuộc điều cấm của pháp luật, hình thức hợp đồng không tuân thủ theo qui định của pháp luật..., xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của các bên chủ thể, gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội . Việc ban hành Bộ luật dân sự vào năm 1995 là rất kịp thời , đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của giao lưu dân sự đang ngày một phong phú, đa dạng, sôi động, nhất là các qui định về HĐDS. Đến nay qua gần 10 năm thi hành, các qui định về HĐDS đã đi vào cuộc sống ; Một mặt hướng dẫn cách xử sự cho cá nhân, tổ chức trong giao lưu dân sự, mặt khác taùo cơ sở pháp lý để xaực định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong quan hệ hợp đồng, tạo căn cứ để Toà án và các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về HĐDS, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần tạo sự ổn định và lành mạnh trong giao lưu dân sự, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giao lửu hội nhập quốc tế. Bên cạnh những kết quả đạt được, các qui định pháp luật về HĐDS vẫn còn bộc lộ những vấn đề mang tính bất cập, các qui định có sự chồng chéo, trái ngược nhau, điều đó đã gây khó khăn cho việc nhận thức cũng như áp dụng các qui định pháp luật về HĐDS. Kết quả dẫn đến tồn tại rất nhiều HĐDS vô hiệu trên thực tế, không đem lại mục đích các bên chủ thể mong muốn, dẫn đến nhiều tranh chấp, khi giải quyết lại thiếu cơ sở pháp lý, gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền. Vì những nguyên nhân trên đây bài vieỏt này đi sâu nghiên cứu thực trạng HĐDS vô hiệu, thống kê vụ việc, cập nhật nội dung để tỡm ra nhửừng nguyên nhân cơ bản, từ đó có những kiến nghị nhất định, đưa ra giải pháp nhằm khắc phục tình trạng, giải quyết được hậu quả pháp lý của HĐDS vô hiệu, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên chủ thể, hoàn thiện hơn nữa các qui định pháp luật, kịp thời điều chỉnh các quan hệ daõn sửù, caực quan heọ veà HẹDS. 2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Người nghiên cứu thực hiện chuyên đề về " Hợp đồng dân sự vô hiệu -Thực trạng và giải pháp ", phạm vi báo cáo : trọng tâm đi vào thực trạng HĐDS vô hiệu, các dạng tồn tại, nguyên nhân của thực trạng, đề ra giải pháp cụ thể. Vì các lẽ trên nên đối tượng cơ bản của nghiên cứu này là:"Hợp đồng dân sự vô hiệu " ( HẹDS voõ hieọu) Hợp đồng dân sự : là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập , thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự ( theo qui định taùi điều 394 - Bộ luật dân sự ); Hợp đồng dân sự được xác định là có hiệu lực khi hợp đồng được giao kết tuân theo điều kiện : Theo qui định tại điều 131 _ Bộ luật dân sự Người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự ; Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội; Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện ; Hình thức của giao dịch hoàn toàn phù hợp với pháp luật . Tuân theo nguyên tắc giao kết qui định tại điều 395_ Boọ luaọt daõn sửù Tự do giao kết nhưng không được trái pháp luật , đạo đức xã hội ; Tự nguyện, bình đẳng, thieọn chí, hợp tác . Hợp đồng dân sự bị coi là vô hiệu khi : hợp đồng ủược giao kết vi phạm các qui định nói trên, nghĩa là hợp ủoàng ủược giao kết do lừa dối , giả tạo, do nhầm lẫn, nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, bị đe doạ, ép buộc, hình thức không tuaõn thủ theo qui định pháp luật . 3. Phương pháp nghiên cứu Vì là chuyên đề nghiên cứu thực trạng, để các số liệu chính xác, trích dẫn được chi tiết, phản ánh trung thực, người thực hieọn đã áp dụng và kết hụùp hài hoà một số phương pháp cơ bản sau: Phương pháp thống kê : Trong báo cáo này người thực hiện đã tìm đọc chi tiết các số liệu lưư trữ tại sổ thụ lý án dân sự của TAND thị xã An Khê, của toà Dân sự - TAND tỉnh Gia Lai, sau đó thống kê lại tổng số án thụ lý, tổng số vụ việc về HĐDS vô hiệu, đồng thời ghi nhận chi tiết nội dung vô hiệu, từ đó xác định tỉ lệ HĐDS vô hiệu trong thực tế với số liệu có được trong quản lý của các cơ quan có thẩm quyền Phương pháp liệt kê : Từ các ghi nhận nói trên, người thực hiện đã liệt kê các dạng tranh chấp, đưa ra tiêu chí phân loại hợp đồng vô hiệu cơ bản ủang tồn tại. Phương pháp xã hội học : Người thực hiện phát phiếu thăm dò thực tế, trao đổi với những người có thẩm quyền liên quan về vấn đề giao kết HĐDS đeồ tìm ra các dạng tranh chấp, khái quát được thực trạng hợp đồng vô hiệu trong thực tiễn, xác định nguyên nhân tồn tại thực trạng này . 4. Nội dung nghiên cứu Chương 1 : Thực trạng về HĐDS vô hiệu Trong chương này người nghiên cứu nêu lên cơ sở pháp lý của HĐDS, đưa ra các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ về HĐDS, đồng thời ghi nhận các số liệu chi tiết về HĐDS vô hiệu, đối chiếu số lượng HĐDS vô hiệu tồn tại trong thực tế với số lượng HĐDS vô hiệu được đưa ra giải quyết tại các cơ quan có thẩm quyền, để nêu lên sự ảnh hưởng đáng kể, tác hại nghiêm trọng khi các cơ quan chức năng không quản lý được xác thực các HĐDS vô hiệu trong thực tiễn. Đồng thời nêu lên một số nội dung tranh chấp nhất định, những lĩnh vực cơ bản mà khả năng xảy ra các giao kết vô hiệu nhiều, rút ra được những dạng vô hiệu cụ thể, phân loại ra các thực trạng HĐDS vô hiệu phổ biến . Chương 2 : Nguyên nhân và giải pháp Với những thực trạng HĐDS vô hiệu nghiên cứu tại chương 1, chương này đã xác định được nguyên nhân cơ bản của thực trạng HĐDS vô hiệu, đề xuất phương hướng cụ thể nhằm khắc phục thực trạng, hạn chế giao kết HĐDS vô hiệu, giải quyết triệt để haọu quaỷ pháp lý HĐDS vô hiệu, góp phần vào cơ sở lý luận để sửa đổi, bổ sung nhửừng baỏt caọp trong pháp luật về HĐDS. chương 1 Thực trạng về hợp đồng dân sự vô hiệu Phần A : Cơ sở pháp lý Hợp đồng dân sự ( HĐDS ) là một giao dịch dân sự rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện nay, thực tiễn cuộc sống việc giao kết HĐDS hiện là một hoạt động thông dụng, cập nhật, phức tạp, và rất cần thiết nhằm thoả mãn các nhu cầu về đời sống tinh thần, đáp ứng các mong muốn về vật chất, đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của các bên chủ thể, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự ổn định và phát triển kinh tế, xã hội . Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết, từ tầm quan trọng bởi các yêu cầu của các quan hệ về HĐDS, các cơ quan có thẩm quyền đã kịp thời ban hành các qui định để điều chỉnh các quan hệ về HĐDS . Bộ luật dân sự naờm 1995 qui định về HĐDS tại các phần : Chế định Hợp đồng dân sự được qui định tại Chương I, II ; Phần thứ ba về Nghĩa vụ dân sự và Hợp đồng dân sự ; Các vấn đề khác có liên quan đến HĐDS còn được điều chỉnh bởi các qui định tại các phần khác nhau ở Chương 5 + Phần thứ nhất : Những qui định chung ; + Phần thứ hai : HĐDS về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ; + Phần thứ sáu : về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ ; + Phần thứ bảy : về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài . Để đưa vào áp dụng thực tiễn các qui phạm pháp luật điều chỉnh về HĐ DS, thời gian vừa qua, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành một số văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự : + Nghị định số 63/CP ngày 24 - 10 - 1996 của Chính phủ, qui định chi tiết về sở hữu công nghiệp, tiếp đó là thông tư soỏ 3055/TT - SHCN ngày 31 - 12 - 1996 hướng dẫn thủ tục về việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp và một số thủ tục khác trong nghị định 63 ; + Nghị định số 76/CP, ngày 29 - 11 - 1996 của Chính phủ, hướng dẫn thi hành một số qui định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự. Gần đây, Bộ văn hoá thông tin dã ban hành thông tư hướng dẫn về hợp đồng sử dụng tác phẩm theo qui định tại Bộ luật dân sự và Nghị định 76/CP ; + Nghị định số 45/1998/NĐ-CP, ngày 01 - 07 - 1998 của chính phủ , qui định chi tiết về chuyển giao công nghệ ; + Nghị định 165/199/NĐ-CP, ngày 19 - 11 - 1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm + Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10, ngày 20 -08 - 1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 - 07 -1991 ; Thời gian gần đây tại kỳ hụùp Quốc Hoọi vào tháng 10, 11 năm 2004 cuừng đã thông qua nhieàu dự luật có liên quan đến quan hệ HĐDS. Ngoài ra các qui định điều chỉnh quan hệ về HĐDS còn ủược qui định trong các văn bản pháp luật khác + Các HĐDS liên quan đến quyền sử dụng đất được qui định trong luật đất đai 1993, luật đất đai năm 2003, Nghị định 181/2004/NĐ-CP ; + Các văn bản về hợp đồng vay tài sản ... Phần B : Thực trạng Qua thực tiễn thi hành Bộ luật dân sự, các qui định pháp luật về quan hệ HĐDS cho thấy, các qui định pháp luật dân sự nước ta, nhìn chung có tiến bộ, tương đối hoàn thiện và đầy đủ, điều chỉnh hầu hết các vấn đề cơ bản trong quan hệ về dân sự, kỷ thuật lập pháp coự tiếp thu những tinh hoa lập pháp qua các thời kỳ, nội dung phù hợp với đặc thù kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, đặc thù dân tộc. Song các qui định về quan hệ HĐDS cũng không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập bởi nền kinh tế thị trường đa dạng, năng động, phức tạp luôn vận động và phát triển, đời sống đi lên, trình độ dân trí nâng cao, nhu cầu giao dịch ngày càng phát sinh, trụỷ neõn cấp thiết đối với mọi cá nhân và tổ chức, hơn nữa chịu áp lực lớn trong quá trình hoọi nhập Quốc tế, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Kết quả của những tồn tại trên dẫn đến một thực trạng các HĐDS vô hiệu rất đáng kể, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự ổn định , phát triển kinh tế, xã hội, nguy hại đến pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy bên cạnh số lượng các HĐDS có hiệu lực thi hành đem lại lợi ích chính đáng cho các bên, thì con số các HĐDS vô hiệu cũng không phải nhỏ, vấn đề ở đây là nhửừng giao kết vô hiệu đó không được các cơ quan thẩm quyền quản lý, đa số vẫn được thực hiện trong thực tế ; Bàn về thực trạng HĐDS vô hiệu, chuựng ta cần phải đề cập đến hai vấn đề cơ bản : Thứ nhất : HĐDS vô hiệu - Thực trạng và vấn đề quản lý, giám sát về HĐDS vô hiệu Qua điều tra khảo sát thực tế cho thấy, các quan hệ về HĐDS được giao kết không đúng qui định pháp luật đang tồn tại với số lượng lớn trong giao lưu dân sự, tuy nhiên vấn đề ở đây là, con số về HĐ DS vô hiệu là một con số ẩn , nghĩa là các HĐDS vô hiệu được giao kết là rất lớn, được giao kết hàng ngày, hàng giờ, nhưng hợp đoàng vẫn được thực hiện, chấm dứt ; Số các HĐDS vô hiệu được giải quyết taùi caực cụ quan có thẩm quyền không nhiều, để lại hậu quả phức tạp, xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của các bên, của những người khác có liên quan, gây khó khăn cho việc giải quyết cuỷa cơ quan có thẩm quyền, xáo trộn trật tự đạo đức, xã hội. Điều này có thể nhận thấy chi tiết hơn qua những thống kê dưới đây Bằng phương pháp thăm dò xã hội học, điều tra thực tiễn , đặt câu hỏi với 25 người +Hỏi : Khi có nhu cầu về vốn, bạn thường đi vay ở đâu, lãi suất bao nhiêu ? => Có 17 người trả lời : Thường đi vay chỗ bạn bè bên ngoài, nhanh hơn, lãi suất khoản 2 - 3% một tháng; +Hỏi : Khi đi bán xe máy - taứi saỷn là sở hữu của 2 vợ chồng , theo bạn bên bán ai ký vào giấy bán xe ? => Có 12 người trả lời : thì xe của tôi , tôi đứng tên trong " Cà vẹt " thì tôi có quyền mua bán , tôi là người ký Con số này phản ánh rằng : có từ 60 đến 70% các bên khi giao kết sẽ thiết lập và thực hiện các HĐDS vô hiệu. Trong khi baống phửụng phaựp tra cửựu , thống kê caực soỏ lieọu taùi toứa aựn caực caỏp : Theo hồ sơ thụ lý án dân sự tại Toà án, đơn thư khiếu nại tại các cơ quan có thẩm quyền, thì các khiếu nại, khởi kiện về HĐDS lại thể hiện bằng con số rất khiêm tốn, thật vậy, Theo số liệu lưu trữ tại TAND thị xã An Khê _ tỉnh Gia Lai Năm 2003: +Tổng số án dân sự được thụ lý là : 62 vụ ; +Trong đó, tổng số khởi kiện về HĐDS vô hiệu : Không có thụ lý Số liệu trên được kyự tổng kết đến ngày 31 tháng 12 năm 2003 Năm 2004 : +Tổng số án dân sự được thụ lý là : 52 vụ +Trong đó tổng số các khởi kiện về yêu cầu tuyên bố HĐDS vô hiệu, huỷ HĐDS chỉ có : 3 vụ Số liệu này được ký tổng kết đến ngày 31 tháng 10 năm 2004 Theo số liệu lưu trử tại Toà dân sự - TAND tỉnh Gia Lai Năm 2004 : +Tổng số án dân sự đã thụ lý (sơ thẩm và phúc thẩm) là : 48 vụ +Trong đó các khởi kiện về yêu cầu huỷ HĐDS, tuyên bố HĐ DS vô hiệu là : 12 vụ Số liệu này được ký tổng kết đến ngày 31 tháng 10 năm 2004 Qua các thống kê trên cho thấy, HĐDS vô hiệu hiện nay đang tồn tại rất nhiều, song vấn đề nghiêm trọng là, thực trạng này không nằm trong sự quản lý của các cơ quan chức năng, HĐDS vô hiệu được thực hiện ngoài tầm kiểm soát, giám sát của cơ quan có thẩm quyền, không tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật ; Khi một HĐDS vô hiệu được giao kết, thực hiện, cũng có nghĩa là một hành vi vi phạm pháp luật được thực thi trên thực tế, gây xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự, ảnh hưởng đến quản lý nhà nước, vi phạm nghiêm trọng pháp chế XHCN. Chúng cần phải kip thời điều chỉnh và giám sát . Thửự hai : Thực trạng về các dạng HĐDS vô hiệu cơ bản Thông qua điều tra thực tiễn, thăm dò ý kiến trong quần chúng, kết hợp vieọc nghiên cứu hồ sơ các vụ án taùi TAND, đơn thư khiếu nại, tố cáo tại UBND các cấp, và các cơ quan ban ngành khác, có thể tổng kết được như sau: Căn cứ vào phạm vi các QHXH về HĐDS đã được pháp luật tác động, hay chưa, hiện nay thực trạng về HĐDS vô hiệu tồn tại dưới hai loại cơ bản : HĐDS vô hiệu do vi phạm pháp luaọt về HĐDS ( Loại hợp đồng này đã được pháp luật dự liệu và đã có quy phạm pháp luật điều chỉnh, nhưng việc giao kết hợp đồng vi phạm các qui định pháp luật ) ; HĐDS vô hiệu do các đối tượng giao kết của hợp đồng chưa được pháp luật điều chỉnh( Một số QHXH về HĐDS chưa đượcpháp luật dự liệu, chưa có QPPL điều chỉnh,nên việc giao kết hợp đồng không có cơ sở pháp lý ), nói cách khác, các đối tượng giao kết của hợp đồng chưa được pháp luật dân sự nói chung, pháp luật về HĐDS nói riêng dự liệu đến, và cũng chưa có một qui phạm pháp luật nào khác đề cập, chẳng hạn : hợp đồng mang bầu thuê, tặng cho trứng, ADN, hay các loại HĐDS ký qua fax, giao kết bằng thư điện tử . . . 1.1. HĐDS vô hiệu do vi phạm pháp luật về HĐDS ( Có PL điều chỉnh, nhưng việc giao kết hợp đồng không tuân thủ hoặc vi phạm PL ) Thực trạng vô hiệu naứy hiện không phải là vấn đề cơ bản, bức xúc trong dư luận, thế nhưng đây là tồn tại vi phạm nghiêm trọng pháp luật dân sự. Mặc dù những quan hệ về HĐDS này đã được rất nhieàu chế định luật, ngành luật tương đối hoàn thiện, chi tiết, đầy đủ điều chỉnh, tuy nhiên với nhiều nguyên do khác nhau, khách quan có, chủ quan có, thêm vào đó là sự vận động phát triển phức tạp của cơ chế thị trường đã tạo nên tồn tại phong phú và đa dạng về HĐDS vô hiệu, trong trường hợp này gồm cả những HĐDS vô hiệu một phần, HĐDS vô hiệu toàn bộ, HĐDS vô hiệu về nội dung, vô hiệu về hình thức. 1.1.1. HĐDS vô hiệu do vi phạm pháp luật HĐDS về nội dung Đối với các HĐDS vô hiệu này là các điều khoản khác nhau trong hợp đồng không tuân thủ theo qui định pháp luật hoặc vi phạm pháp luật HĐDS, hoặc thiếu các ủiều khoản cơ baỷn mà qui định pháp luật HĐDS bắt buộc cần phải có..., chẳng hạn : đối tượng giao kết của hợp đồng mua bán là tài sản không thuộc sở hữu của bên bán, hoặc là tài sản thuộc sở chung của vợ, chồng, trong hợp đồng vay tài sản thì lãi suất cho vay lại quá cao, các HĐDS về chuyển nhượng đất thì QSDĐ được chuyển nhượng sai mục đích sử dụng... , phổ biến có các HĐDS vô hiệu trong các trường hợp: Các HĐ DS vô hiệu do có nội dung vi phạm điều cấm pháp luật và trái đạo đức xã hội ( Đ 137_BLDS ) HĐDS vô hiệu này là giao dịch dân sự vô hiệu được qui định tại điều137 Bô luật dân sự. Đây là thực trạng hợp đồng vô hiệu ẩn, nghĩa là các hụùp đồng vô hieọu này không được lưu giữ, thông kê tại TAND hoặc cơ quan có thẩm quyền, nhưng qua số liệu thống kê xã hội học, thì đây lại là một con số đaựng quan tâm Các HĐDS này là các thoả thuận mua bán hàng hoá quốc cấm, như : ma tuý, đồ cổ, động thực vật rừng cấm săn bắt, mua bán ; các thoả thuận về vay tài sản với lãi suất cao ; các hợp đồng mua bán, tặng cho quyền sử dụng đất nông nghiệp nhưng người ủửụùc nhận QSDĐ lại không có nhu cầu sử dụng đất theo qui định luật đất đai 1993 ; Chuyển nhượng Quyền SD đất không có hợp đồng... +Các hợp đồng vay tài sản lãi suất cao Xuất phát từ nhu cầu thường ngày vốn sản xuất, kinh doanh, do ốm đau, cưới sinh, các chủ thể có yêu cầu vay mượn nhanh chóng ( vay nóng ), thủ tục đơn giản, tiện lợi, nên các bên đã giao kết hợp đồng vay tài sản giữa các cá nhân với nhau, khi đó thủ tuùc vay đơn giản, vốn vay cập nhật, đáp ứng kịp thời theo yêu cầu, nếu hợp đồng vay có thế chấp thì không cần công chứng , chứng thực, ngược lại lãi suất vay thường cao hơn rất nhiều so với qui định lãi suất tối đa mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định ( thông thường 2% đến 3% trên 1 ngày 1 ngày, thậm chí lên đến 10% đến 15% trên 1 tháng ) . +Các hợp đồng mua bán vi phạm pháp luật Hiện nay trên địa bàn Gia Lai nói riêng, khu vực các tỉnh tây nguyên, miền núi nói chung đang diễn ra tình trạng mua bán xe máy, khai thác gỗ trái phép một cách ồ ạc . Do đặc thù nền kinh tế ở những địa phương này là sản xuất nông nghiệp, làm nương rẫy , khai thaực rửứng, kinh doanh gỗ, trong khi đó laừnh thoồ gaàn bieõn gụựi, đường xá, địa hình laứ các đưụứng dã chiến, đường mòn, sình lầy, đồi dốc dẫn đến nhu caàu về các loại phương tiện vận tải rẻ, động cơ mạnh, để lưu thông trên các đường rừng núi, dốc trơn; Đáp ứng các yêu cầu đó chỉ có những loại xe như : Citi Hàn Quốc, DH, " xe 67 " của Nhật, có điều tồn tại ở ủây là hầu hết những xe này đều có nguồn gốc nhập lậu,không có kê khai đóng thuế Hải quan, dẫn đến các hợp đồng mua bán xe dạng này rất đơn giản, các bên mua bán với nhau bằng giấy "viết tay", các beõn thoả thuận giá cả, thanh toán cho nhau ,nhận xe, không cần biển số kiểm soát , không cần giấy tụứ đăng ký; Bên cạnh , nhu cầu về gỗ cũng không kém phần cấp thiết, thêm vào đó tài nguyên rửứng của các địa phửụng naứy rất phong phú, đa dạng, với nhiều nguồn khai thác khác nhau, hợp pháp có , bất hợp pháp có. Song phần lớn các HĐDS mua bán gỗ để xây dựng thì cây gỗ ủược mua bán là goó khai thác trái phép ( gỗ lậu ), thế nhưng,khi cây gỗ thành phẩm được giao cho các bên tại công trỡnh thì không ai kiểm tra, hiển nhiên cây gỗ thành phẩm đó trở thành gỗ được mua bán hợp pháp. Các HĐDS vô hiệu do các điều khoản cơ bản còn thiếu, chưa phù hợp, hoặc vi phạm pháp luật về HĐDS Thực trạng vô hiệu này đang rất phổ biến trong giao lưu dân sự, nội dung các loại hợp đồng vô hiệu này thường thiếu điều khoản theo quy định pháp luật, đối tượng giao kết vi phạm các qui định pháp luật dân sự, pháp luật về HĐDS, có nhiều vi phạm khác nhau, hợp đồng mua bán tài sản không thuộc sở hữu của mình, hoặc tài sản chung của vợ , chồng chỉ do một người vợ hay chồng đem bán, hợp đồng cầm cố ,thế chấp tài sản có đăng ký sở hữu nhưng bên cầm cố không phải là người có tên theo giấy đăng ký, hợp đồng xây dựng nhà không có giấy phép xây dựng... . Phần lớn các HĐDS này vi phạm qui định của pháp luật là do các bên chủ thể giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối nhau, kết quả HĐDS vô hiệu theo qui định tại điều 138, 141, 142 Bộ luật
Tài liệu liên quan