Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng trung dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại ngân hàng công thương chi nhánh cầu giấy

Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong thời gian nhất định, đồng thời nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời gian đã thoả thuận.

doc97 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1209 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng trung dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại ngân hàng công thương chi nhánh cầu giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I: Tín dụng trung – dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh I. lý luận chung về tín dụng trung - dài hạn của Ngân hàng thương mại 1.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong thời gian nhất định, đồng thời nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời gian đã thoả thuận. 1.2. Phân loại tín dụng Ngân hàng Tín dụng Ngân hàng có thể phân chia thành nhiều loại theo những tiêu thức khác nhau. 1.2.1. Theo thời hạn sử dụng: Cho vay có kỳ hạn là khoản vay mà thời hạn hoàn trả và thời điểm hoàn trả được xác định một cách cụ thể ngay từ khi ký hợp đồng tín dụng. Có ba loại: Cho vay ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn không quá một năm, dùng để bổ sung cho phần vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp hay phục vụ tiêu dùng đối với nhu cầu cá nhân. Cho vay trung hạn là loại tín dụng có thời hạn từ 12 đến 60 tháng. Cho vay dài hạn là loại tín dụng có thời hạn từ 5 năm đến thời hạn được phép tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp đi vay. Cho vay không kỳ hạn là khoản cho vay không quy định thời điểm hoàn trả cụ thể khi ký hợp đồng vay mà thay vào đó là những điều kiện cụ thể về trả nợ của người vay và việc thu hồi tiền cho vay của NH. Điều kiện ở đây là người đi vay sẽ hoàn trả khi không có nhu cầu sử dụng hay khi có nguồn khác bù đắp. Còn Ngân hàng phải báo trước để người vay tìm nguồn khác trả nợ cho ngân hàng. Loại hình cho vay này sẽ góp phần tạo điều kiện chủ động cho khách hàng trong việc sử dụng tiền vay, giảm chi phí còn đối với Ngân hàng sẽ có kế hoạch điều chỉnh khả năng cho vay, đồng thời tiết kiệm chi phí trong quá trình xét duyệt. 1.2.2. Theo phương thức bảo đảm Cho vay có bảo đảm là các khoản vay mà Ngân hàng sẽ nắm giữ các tài sản thuộc sở hữu trực tiếp của người đi vay, thuộc tài sản sở hữu người bảo lãnh với mục đích xử lý các tài sản đó để thu hồi tiền cho vay khi người vay vi phạm HĐTD. Các loại tài sản nói trên thường là bất động sản và động sản, ngoài ra còn phụ thuộc vào quy định của cho vay. Cho vay không có bảo đảm (tín chấp). Ngân hàng không nắm giữ một loại tài sản nào của người vay để thanh lý tài sản nhằm thu hồi khoản vay, mà thay vào đó những điều kiện khắt khe: Khách hàng không được thiết lập mối quan hệ với bất kỳ một Ngân hàng khác nhằm giúp Ngân hàng quản lý được mọi biến động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. NH đã hoặc đang góp một phần vốn với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phương án kinh doanh của DN được NH đánh giá có tính khả thi cao, khả năng đem lại lợi nhuận cao. 1.2.3. Theo ngành kinh tế Tín dụng được phân cấp thành tín dụng cấp cho ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp dịch vụ.. ..Vì hướng cho vay khác nhau nên điều kiện và phương thức cho vay rất khác nhau, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành mà có quy định riêng. 1.2.4. Theo thành phần kinh tế Tín dụng phân cấp cho thành phần kinh tế quốc doanh Tín dụng phân cấp cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. 1.2.5. Theo phương thức trả góp: Cho vay trả góp cho tiêu dùng. Cho vay hoàn trả một lần khi đến hạn thường áp dụng đối với những khoản cho vay nhỏ hay ngắn hạn. Cho vay từng món được phát sinh khi doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền không có giấy tờ để chiết khấu hay thấu chi, khi mở rộng chu kỳ kinh doanh có tính chất nhất thời không vĩnh viễn, có thể xác định được lượng tiền cần vay và thời hạn sử dụng. Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cho vay mà khách hàng và Ngân hàng thoả thuận xác định lượng tín dụng tối đa theo đó trong một khoảng thời gian nhất định thì khách hàng có thể toàn quyền được vay trong điều kiện tổng dư nợ tại thời điểm đó không vượt quá số quy định. Cho vay hợp vốn là hình thức nhiều tổ chức tín dụng khác nhau đồng tài trợ cho một đối tượng đi vay. Có ưu điểm là san sẻ rủi ro, song nhược điểm là lơi lỏng trong việc kiểm soát tiền vay của khách hàng. 1.2.6. Theo nguồn gốc hình thành các khoản cho vay. Cho vay trực tiếp là những cơ sở hình thành trực tiếp giữa Ngân hàng và nguời vay diễn ra ở Ngân hàng hoặc doanh nghiệp. Hiện nay, phần lớn các khoản cho vay của Ngân hàng là cho vay trực tiếp. Cho vay gián tiếp được thực hiện thông qua mua lại những khoản cho vay của Ngân hàng khác hoặc thông qua mua lại những khoản cho vay của Ngân hàng khác hoặc thông qua trái phiếu của công ty, chính phủ. 1.2.7. Theo kỹ thuật cung cấp tín dụng được phân thành: Bảo lãnh là hình thức Ngân hàng dùng uy tín của mình đứng ra bảo lãnh cho người mua trước người bán. Hình thức bảo lãnh rất đa dạng và phong phú như bảo lãnh ký quỹ dự thầu, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh đối ứng… Tín dụng thuê mua là hình thức mà người thuê sau một thời gian sử dụng tài sản thuê có thể mua lại tài sản đó với mức giá thoả thuận. Tín dụng chiết khấu là nghiệp vụ mà theo đó Ngân hàng cấp cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu trừ đi một khoản lệ phí chiết khấu. Khi chứng từ chiết khấu đến hạn Ngân hàng nhận lại toàn bộ số tiền bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu, chứng từ chiết khấu có thể là kỳ phiếu thương mại, hối phiếu đã được chấp nhận. II. Tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.1. Tín dụng trung – dài hạn 1.1.1 Khái niệm Tín dụng Ngân hàng (cho vay) trung- dài hạn là các khoản cho vay của Ngân hàng có thời hạn trên một năm nhưng không dài hơn thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành bằng vốn vay. Tín dụng trung – dài hạn còn góp phần đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục, đồng thời góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế phát triển cao như hiện nay, thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra tại các doanh nghiệp. Việc phân phối tín dụng trung – dài hạn đã góp phần điều hoà vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục, ngoài ra nó còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư đồng thời là phương tiện đáp ứng vốn cho nhu cầu phát triển. Tín dụng trung – dài hạn còn thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất: Hoạt động của Ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng hiện đang nằm phân tán trong nền kinh tế, trên cơ sở đó cho doanh nghiệp vay. Tuy nhiên quá trình đầu tư không phải rải đều cho mọi chủ thể mà được thực hiện một cách tập trung cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy đây là cách thức buộc các doanh nghiệp phải cố gắng hoạt động sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả để được Ngân hàng xem xét cho vay vốn. Tín dụng trung dài hạn góp phần tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn: Tín dụng trung dài hạn đầu tư vào máy móc thiết bị và xây dựng cơ bản của doanh nghiệp làm kích thích sản xuất phát triển. Khi đó các doanh nghiệp cần nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng sự phát triển sản xuất, điều đó tạo ra thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Tốc độ phát triển sản xuất càng cao nhu cầu vốn lưu động càng lớn và tín dụng trung dài hạn đã tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển. Tín dụng trung dài hạn góp phần thúc đẩy chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá: Thông qua nghiệp vụ tín dụng trung dài hạn, Ngân hàng có thể cho vay đáp ứng với sự phát triển của ngành này, cũng có thể hạn chế đối với một số ngành kinh tế khác. Công nghiệp hoá không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà là cả quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới cơ bản về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhờ có vốn đầu tư tín dụng trung dài hạn mà các doanh nghiệp có thể nhập khẩu máy móc trang thiết bị công nghệ. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì việc mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu là một điều tốt, đây là con đường ngắn nhất để chúng ta đuổi kịp các nước về mặt công nghệ. Ngoài ra nhờ việc nhập máy móc thiết bị, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được tăng lên, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao, mẫu mã đẹp đáp ứng yêu cầu của thị trường nước ngoài, để có thể tăng khả năng cạnh tranh và xuất khẩu. Tín dụng trung – dài hạn góp phần tiết kiệm được lượng tiền mặt trong lưu thông, tạo điều kiện cho việc quản lý và điều hoà lưu thông tiền tệ, góp phần kiểm soát các hoạt động trong nền kinh tế, thúc đẩy việc nâng cao chất lượng sử dụng vốn trong hoạt động kinh tế xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh doanh. Tín dụng trung dài hạn góp phần tạo nguồn thu vững chắc cho ngân sách. Tín dụng trung dài hạn đầu tư cho phát triển kinh tế theo chiều sâu, do đó khi sản xuất phát triển sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá để tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, do đó trong trường hợp sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ với khối lượng lớn, ổn định sẽ tạo ra nguồn thu cho ngân sách từ thuế GTGT, thuế xuất khẩu, thuế sử dụng tài nguyên. Ngoài ra, khi các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nhà nước còn có khoản thu từ thuế thu nhập. Trong trường hợp sản phẩm sản xuất ra được xuất khẩu sang các nước thì chúng ta sẽ thu được ngoại tệ đảm bảo duy trì cho nhu cầu nhập khẩu, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Tín dụng trung – dài hạn là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn: Thông qua hệ thống Ngân hàng, Nhà nước sẽ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian dài, mức hồi vốn lớn. Bên cạnh đó, Nhà nước còn tập trung vốn để tài trợ cho các ngành mũi nhọn, các ngành này phát triển sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo. Tín dụng trung – dài hạn tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài: Trong điều kiện hiện nay, phát triển kinh tế một nước luôn gắn liền với kinh tế thế giới, kinh tế “đóng” nhường bước cho kinh tế “mở” vì vậy tín dụng trung – dài hạn đã trở thành một phương tiện nối liền các nền kinh tế với nhau. Trong thời gian qua tín dụng trung – dài hạn của Ngân hàng đã có những đổi mới tích cực, cơ chế lãi suất tín dụng đã bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, từ lãi suất thực âm trước đây sang lãi suất thực dương và đang thực hiện tự do hoá lãi suất, xoá bỏ được sự phân biệt đối với các hình thức sở hữu. Quá trình đổi mới đó đã chuyển hoạt động của các Ngân hàng thương mại sang chế độ hạch toán kinh doanh, góp phần quan trọng để kiềm chế và đẩy lùi làm phát, thúc đẩy các doanh nghiệp củng cố lại chế độ hạch toán kinh doanh, sử dụng vốn có hiệu quả khai thác tối đa tiềm năng về vốn trong nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, bên cạnh các nguồn vốn vật tư, kỹ thuật, đất đai, lao động, tri thức khoa học, tín dụng trung – dài hạn là một kênh vốn quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Trước hết đó là công cụ đòn bẩy thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế hàng hoá, hình thành góp phần giữ ổn định nền kinh tế thị trường. 1.2. Tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) 1.2.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.2.1.1. Khái niệm: Xét về hình thức sở hữu thì doanh nghiệp nước ta chia thành 2 loại: Doanh nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu của Nhà nước, còn doanh nghiệp ngoài quốc doanh mang hình thức sở hữu phi nhà nước. Trước năm 1986 kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta chỉ là kinh tế tập thể với hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Từ sau năm 1986 nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích mở rộng các doanh nghiệp có tính chất tư hữu bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và hợp tác xã. 1.2.1.2. Phân loại: Doanh nghiệp tư nhân: Công ty cổ phần là doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn Công ty hợp danh Hợp tác xã 1.2.1.3.Đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động rất đa dạng và phong phú với nhiều ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ là một Ngân hàng, chúng ta nhìn nhận đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này trên một số giác độ sau: Hình thức sở hữu: Hình thức sở hữu của các DNNQD là sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Song chủ yếu là sở hữu hỗn hợp với các loại hình chủ yếu sau: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, hợp tác xã, kinh tế cá thể tiểu chủ, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó, tư cách pháp lý của loại hình doanh nghiệp này là: Đối với các doanh nghiệp: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã, doanh nghiệp FDI chịu trách nhiệm trên phần vốn góp vào công ty, tức là chịu trách nhiệm hữu hạn. Đối với các doanh nghiệp: Công ty tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ, công ty hợp danh thì phải chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của công ty bằng toàn bộ tài sản của mình, tức là chịu trách nhiệm vô hạn. Ngành nghề kinh doanh: Các DNNQD phần lớn tập trung ở các thành phố lớn và các trung tâm kinh tế xã hội. Phần nhiều các doanh nghiệp được thành lập mang tính tự phát, không có sự chỉ định của chính quyền. Đa số họ hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, khách sạn; lĩnh vực công nghiệp thường chiếm tỷ trọng nhỏ hơn; lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác và phân phối điện, tài chính Ngân hàng … chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Sở dĩ có sự mất cân đối trong lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp này đối với nền kinh tế là họ thượng ưa thích đầu tư vào nhứng ngành nghề có khả năng quay vòng vốn nhanh, vốn đầu tư ít như thương mại, dịch vụ… Bởi vì như thế là phù hợp với khả năng tài chính và năng lực quản lý của họ. Các lĩnh vực khác như xây dựng, tài chính, Ngân hàng … yêu cầu về vốn và trình độ quản lý rất cao, trong khi đó, việc quay vòng vốn lại lâu gây khó khăn cho họ, chỉ những doanh nghiệp có tiềm lực mạnh về kinh tế thì mới có đủ điều kiện đầu tư. Môi trường kinh doanh Trước hết là về thông tin thị trường. Đây là khối kinh tế năng động, phản ứng nhanh nhạy với sự thay đổi của thị trường, nhưng đối với những nước đang phát triển còn thiếu nhiều yếu tố của một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Chính vì vậy, họ thường gặp nhiều khó khăn trong vấn đề nắm bắt thông tin thị trường về giá cả, sản phẩm đối thủ cạnh tranh … Đây là những khó khăn chung mà doanh nghiệp phải gánh chịu trong nền kinh tế chưa hoàn chỉnh. Những thông tin như vậy chỉ có thể có một cách đầy đủ tại nhứng nước phát triển Vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Đây là một vấn đề đang được các DNNQD rất quan tâm. Trước hết là vốn chủ sở hữu. Phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô sản xuất nhỏ hẹp. Nguồn vốn này lại được tập trung chủ yếu vào đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị, bao gồm cả mặt bằng kinh doanh. Từ đó, khả năng thanh toán ngắn hạn của vốn chủ sở hữu còn nhiều hạn chế. Nguồn vốn này có khả năng tăng lên trong quá trình kinh doanh từ việc trích một phần lợi nhuận hoặc huy động thông qua phát hành cổ phiếu. Song việc tăng quy mô vốn chủ sở hữu từ việc trích lợi nhuận để lại phải mất một thời gian tương đối dài mới hình thành lượng vốn lớn. Với vốn sở hữu nhỏ như vậy, sẽ gây nhiều khó khăn trong quá trình kinh doanh vì ít có khả năng cạnh tranh. Ngoài vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với huy động thông qua vay mượn bạn bè, người thân hoặc thông qua tín dụng thương mại, đây là những khoản vay hoặc là nhỏ hoặc là ngắn hạn không đủ đáp ứng về quy mô, thời gian và các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp. Nguồn vốn Ngân hàng được coi là nguồn vốn chủ yếu của các doanh nghiệp. Nhưng do quy mô vốn chủ sở hữu thường nhỏ, các DNNQD khó tiếp cận được với nguồn vốn lớn của các NHTM và các tổ chức tài chính khác bởi các tổ chức này thường có quy định về tỷ lệ vốn chủ sở hữu nhất định trong các dự án, phương án sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy đang tồn tại sự bất bình đẳng giữa các DNNN và DNNQD trong việc tiếp cận nguốn vốn tín dụng Ngân hàng. Đây chính là nhân tố dẫn đến họ thường bị thiệt thòi khi trực tiếp phải cạnh tranh với các DNNN. Nhiều doanh nghiệp thành lập cũng có nghĩa là số vốn doanh nghiệp cần để đầu tư sản xuất, do đó nhu cầu tín dụng của những doanh nghiệp này cũng tăng lên, tuy nhiên do một số hạn chế của mình khiến nhiều Ngân hàng vẫn còn e ngại trong việc cho những doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay. Những hạn chế và ưu điểm gồm những điểm như sau: 1.2.2. ưu thế và hạn chế của doanh nghiệp ngoài quốc doanh: 1.2.2.1. Ưu thế: Có khả năng hướng tới lợi nhuận cao nhất: Đây là điều dễ nhận thấy do các DNNQD có tính tư hữu cao. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp luôn gắn với lợi ích của người lao động và quyền lợi của chủ sở hữu. mặt khác, họ phải trực tiếp cạnh tranh với DNNN vốn có thế mạnh do được Nhà nước bảo trợ. Chính vì vậy, họ luôn phải tập trung, tìm cách tận dụng tối đa những thế mạnh, nhất là yếu tố nguồn lực để đẩy mạnh sản xuất nhằm đạt ưu thế nhất định về thương hiệu như tài chính. Hiệu quả sử dụng vốn của các DNNQD cao: Do các doanh nghiệp này thường đầu tư vào những ngành nghề có vốn đầu tư ít, khả năng thu hồi vốn nhanh, có lợi nhuận tương đối cao như ngành thương mại du lịch … có vốn đầu tư ban đầu là rất ít. Cũng chính vì quy mô nhỏ nên cũng có thể coi đây là một lợi thế vì nó dễ dang thay đổi chiến lược kinh doanh thích ứng với sự thay đổi của thị trường, cơ chế chính sách của Nhà nước. DNNQD có khả năng tận dụng triệt để lợi thế để kinh doanh: Xuất phát từ mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các thành phần này lại không được sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước hoặc tổ chức khác. Nguồn lao động là nguồn được khai thác triệt để nhất vì đây là nguồn lực dồi dào, họ lại áp dụng cách thức quản lý rất chặt chẽ theo khu vực, địa phương, gia đình. Nguồn khoa học công nghệ cũng được tận rất cao. Dù rằng trình độ khoa học công nghệ không được đánh giá cao như DNNN, song họ biết tận dụng một cách tối đa khả năng của các loại thiết bị máy móc hiện có để phát triển sản xuất. Các DNNQD thường có bộ máy quản lý, tổ chức kinh doanh gọn nhẹ: Xuất phát từ ngành nghề kinh doanh thường là những ngành đơn giản, dễ quản lý, có chu kỳ kinh doanh ngắn. Mặt khác, nguồn vốn kinh doanh bắt đầu thường thất điều đó dẫn tới bộ máy quản lý gọn nhẹ. Vì vậy, các quyết định về quản lý hoặc kinh doanh được thực hiện nhanh chóng. Công tác kiểm tra được thực hiện trực tiếp đã góp phần đáng kể trong việc giảm chi phí quản lý doanh nghiệp. Các DNNQD có tính linh động cao, có khả năng chuyển hướng kinh doanh nhanh chóng, dễ dàng. Đó là vì họ có cơ cấu vốn thấp và thường chủ yếu là vốn tự có, lại kinh doanh chủ yếu trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Họ có thể dễ dàng chuyển hướng kinh doanh sang mặt hàng khác khi thấy cần thiết và có lợi. Ngoài ra, các DNNQD cũng có thể dễ dàng và nhanh chóng tiếp thu được những tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới giúp họ có thể tiến nhanh trong quá trình phát triển, đón đầu những công nghệ mới. 1.2.2.2. Hạn chế: Tuy có nhiều ưu thế như đã trình bày ở trên. Song các DNNQD cũng còn nhiều hạn chế khó tránh khỏi sau: Về quy mô vốn đầu tư thường là nhỏ, tuy đây cũng là một ưu thế song đây cũng là một hạn chế lớn cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh. Mặt khác, việc tìm nguồn tài trợ của các doanh nghiệp này thường là khó khăn hơn so với các DNNN bởi uy tín của họ dường như chưa có gì. hơn nữa do vốn bé trong khi dự án đầu tư lại yêu cầu vốn phải đủ lớn nên không đáp ứng được yêu cầu về tỷ lệ tài trợ vốn tối thiểu của Ngân hàng khi vay. Tiếp cận được nguồn vốn Ngân hàng đã khó. để có được nguồn vốn đủ cho phương án sản xuất kinh doanh thì lại càng khó hơn. Đây cũng chính là vấn đề nan giải nhất hiện nay mà hầu hết các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính hết sức quan tâm. Một hạn chế dễ nhận thấy là thiết bị công nghệ cho sản xuất kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp còn yếu và lạc hậu. Xuất phát từ nguyên nhân là vốn kinh doanh ít, lại tập trung chủ yếu vào những ngành nghề đòi hỏi ít vốn, khả năng thu hồi vốn nhanh, không đòi hỏi công nghệ phức tạp. Do đó, nhiều doanh nghiệp đã cố gắng tận dụng những thiết bị máy
Tài liệu liên quan