Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện nền kinh tế mở, sản xuất kinh doanh trong nước và đầu tư nước ngoài đều tăng mạnh, đời sống kinh tế xã hội có những bước chuyển biến đáng kể, nhưng kèm theo đó là phát sinh chênh lệch về mức sống ngày càng rõ rệt, đã xuất hiện mâu thuẫn mới về tiền lương giữa các đơn vị, nhất là khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
59 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
Chuyên đề:
THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO
(Tài liệu dùng cho công chức mới vào ngành Thuế)
HÀ NỘI – NĂM 2007
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Phần I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của thuế thu nhập cá nhân ở các nước trên Thế giới
1.2. Sự ra đời và hoàn thiện chính sách thuế thu nhập cá nhân ở việt nam
- Thời kỳ phong kiến, thực dân trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945
- Thuế thu nhập ở miền Nam Việt Nam trước 30/04/1975
- Thuế lợi tức ở miền Bắc Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1990
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (năm 1991)
2. KHÁI NIỆM THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
2.1. Khái niệm thu nhập
2.2. Phân loại thu nhập
2.3. Thu nhập chịu thuế
2.4. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
2.5. Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân
3. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
Phần II: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH
THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO
1. ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ:
1.1. Người Việt Nam
1.2. Người nước ngoài
2. THU NHẬP CHỊU THUẾ, THU NHẬP KHÔNG THUỘC DIỆN CHỊU THUẾ
2.1. Thu nhập chịu thuế
2.1.1. Thu nhập thường xuyên
2.2.2. Thu nhập không thường xuyên
2.2. Các khoản thu nhập tạm thời chưa thu thuế
2.3. Thu nhập không chịu thuế
3. CĂN CỨ TÍNH SỐ THUẾ PHẢI NỘP:
3.1. Xác định thu nhập chịu thuế
a/ Xác định thu nhập thường xuyên chịu thuế
b/ Xác định thu nhập không thường xuyên chịu thuế
3.2. Thuế suất (%), Biểu thuế luỹ tiến từng phần
a/ Đối với thu nhập thường xuyên
b/ Đối với thu nhập không thường xuyên
4. VỀ MIỄN, GIẢM THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO
5. XỬ LÝ VI PHẠM VÀ KHEN THƯỞNG
5.1. Xử lý vi phạm
5.2. Khen thưởng
6. KHIẾU NẠI, THỜI HIỆU
6.1. Khiếu nại
6.2. Thời hiệu
Phần III. QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO
1. Tổ chức quản lý thu thuế TNCNNN:
a/ Tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập (gọi tắt là cơ quan chi trả thu nhập):
b/ Đối với các trường hợp khác ngoài các trường hợp nêu trên (cá nhân hành nghề độc lập,...) thì cá nhân tự đăng ký, kê khai, nộp thuế tại cơ quan thuế.
c/ Trách nhiệm của cơ quan thuế:
d/ Trách nhiệm của các tổ chức đón tiếp, quản lý người nước ngoài xuất cảnh.
đ/ Tách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước.
2. Thủ tục đăng ký cấp và sử dụng mã số thuế cá nhân
3.2.1. Quy định về mã số thuế
3.2.2. Kết cấu mã số thuế
3.2.3. Đăng ký mã số thuế
- Mã số thuế đối với cơ quan chi trả thu nhập
- Mã số thuế đối với cá nhân
3. Thủ tục kê khai, nộp thuế
3.1. Đối tượng kê khai thuế
3.2. Thủ tục về đăng ký nộp thuế
3.3. Nơi kê khai thuế, nộp thuế
3.4. Thủ tục kê khai, nộp thuế
3.4.1. Kê khai và nộp thuế đối với thu nhập thường xuyên
a/ Kê khai và nộp thuế thông qua cơ quan chi trả thu nhập
b/ Kê khai, nộp thuế tại cơ quan thuế
3.4.2- Kê khai, nộp thuế đối với thu nhập không thường xuyên
3.5. Thời hạn kê khai, nộp thuế
4. Thủ tục quyết toán thuế
4.1. Nguyên tắc quyết toán thuế
4.2. Các Tờ khai quyết toán thuế năm
4.2.1. Trường hợp cá nhân nộp thuế thông qua cơ quan chi trả`thu nhập
4.2.2. Đối với cá nhân trực tiếp nộp thuế tại cơ quan Thuế
4.3. Nội dung quyết toán thuế:
a/ Đối với người Việt Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam
b/ Đối với người nước ngoài
b.1/ Xác định thời gian cư trú
b.2/ Xác định số thuế phải nộp
4.4. Thủ tục về quyết toán thuế
4.4.1. Quyết toán tại cơ quan chi trả thu nhập
4.4.2. Quyết toán tại cơ quan thuế
4.4.3. Thời hạn nộp tờ khai quyết toán thuế năm
4.4.4. Quy trình quyết toán thuế
Bước 1/ Nhận báo cáo quyết toán thuế
Bước 2/ Kiểm tra thủ tục hồ sơ quyết toán thuế
Bước 3/ Nhập quyết toán thuế
Bước 4/ Phân tích, đối chiếu số liệu báo cáo quyết toán thuế tại cơ quan thuế
Bước 5/ Điều chỉnh báo cáo quyết toán thuế
5. Thủ tục miễn giảm thuế
6. Thủ tục thoái trả thuế
6.1. Đối tượng được thoái trả thuế TNCNNN
6.2. Hồ sơ đề nghị thoái trả tiền thuế
6.3. Quy trình thoái trả thuế
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ thoái trả thuế
Bước 2: Kiểm tra thủ tục hồ sơ thoái trả thuế
Bước 3: Kiểm tra số liệu của hồ sơ thoái trả thuế
Bước 4: Lập chứng từ uỷ nhiệm chi thoái trả thuế
Bước 5: Lập báo cáo về việc thoái trả thuế và lưu hồ sơ thoái trả thuế
6.4. Thời hạn thoái trả tiền thuế
6.5. Quản lý và thoái trả tiền thuế TNCNtừ tài khoản tạm thu
6.5.1/ Tài khoản tạm thu
6.5.2/ Quy định cụ thể về quản lý tài khoản tạm thu
7. Chứng từ nộp thuế
7.1. Giấy nộp tiền vào NSNN
7.2. Biên lai thuế thu nhập (Mẫu số CTT 10b)
7.3. Chứng từ khấu trừ thuế thu nhập (mẫu số CTT 54)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện nền kinh tế mở, sản xuất kinh doanh trong nước và đầu tư nước ngoài đều tăng mạnh, đời sống kinh tế xã hội có những bước chuyển biến đáng kể, nhưng kèm theo đó là phát sinh chênh lệch về mức sống ngày càng rõ rệt, đã xuất hiện mâu thuẫn mới về tiền lương giữa các đơn vị, nhất là khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh đó, hệ thống chính sách thuế được cải cách bước 1 (năm 1990). Bên cạnh Luật Thuế lợi tức áp dụng đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, Quốc hội uỷ quyền cho Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao có vai trò tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước, là công cụ phân phối đảm bảo công bằng xã hội, góp phần quản lý thu nhập dân cư và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (dưới đây gọi tắt là thuế thu nhập cá nhân) được ban hành ngày /12/1990 và có hiệu lực thi hành ngày /4/1991, điều chỉnh thu nhập của những người làm công ăn lương, nên đối tượng nộp thuế không chỉ các cá nhân làm trong các cơ sở sản xuất kinh doanh mà cả trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức không kinh doanh và không chỉ là người Việt Nam mà điều chỉnh cả đối với người nước ngoài công tác làm việc tại Việt Nam có phát sinh thu nhập chịu thuế. Đồng thời, phương pháp quản lý thuế TNCN chủ yếu là khấu trừ tại nguồn và quyết toán thuế năm với cá nhân nộp thuế trực tiếp tại cơ quan thuế, nên việc quản lý thuế thu nhập cá nhân rất phức tạp. Do vậy, mỗi công chức, viên chức thuế cần phải nắm được những kiến thức cơ bản về thuế TNCN và các quy trình, thủ tục trong quản lý thuế TNCN.
Tài liệu bồi dưỡng này nhằm trang bị, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức thuế mới vào ngành Thuế các kiến thức cơ bản về thuế TNCN và cụ thể về một số kỹ năng cơ bản để thực hiện việc quản lý thuế TNCN ở Việt Nam, tạo cho công chức mới định hướng tự hoàn thiện trong quá trình công tác và để kết thúc khoá học, học viên sẽ làm được cán bộ quản lý thuế TNCN.
Phần I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của thuế thu nhập cá nhân ở các nước trên Thế giới
Thuế thu nhập cá nhân (còn gọi là thuế thu nhập dân cư, dưới đây viết tắt là thuế TNCN) là loại thuế phổ biến trên Thế giới và có lịch sử hàng trăm năm. Thời kỳ mới ban hành, các Chính phủ thường đánh thuế vào đối tượng dễ đo lường được như đánh thuế trên đất đai, tài sản, hàng hoá hữu hình, các hàng hoá và tàu biển, hoặc số lượng cửa sổ hoặc lò sưởi trong một toà nhà. Thuế thu nhập cá nhân được đưa ra và áp dụng lần đầu tiên tại Hà Lan vào năm 1797, sau đó là ở Vương quốc Anh vào năm 1799 và ở Phổ vào năm 1808. Việc các nước đánh thuế TNCN lúc đó là chủ yếu nhằm tạo ra nguồn thu tài trợ cho cuộc chiến chống Napoléon và đầu tiên nó được xem như là khoản thuế lợi nhuận tính theo đầu người. Thuế TNCNNN hoàn chỉnh được chính thức ban hành ở Anh vào năm 1842, sau đó được các nước tư bản phát triển áp dụng như: ở Nhật Bản áp dụng vào năm 1887, Hoa Kỳ bắt đầu áp dụng thuế thu nhập vào năm 1864 trong thời kỳ nội chiến nhưng bị gián đoạn vào năm 1872 và áp dụng trở lại vào năm 1913, ở Pháp áp dụng vào năm 1914; các nước Châu Á như Thái Lan bắt đầu áp dụng vào năm 1939, ở Phi-líp-pin năm 1945, Hàn Quốc năm 1948, In-đô-nê-sia năm 1949, Trung Quốc năm 1984; các nước Đông Âu mới áp dụng như: Ru-ma-ni năm 1990, Nga năm 1991, Ba Lan năm 1992....
Đến nay, đã có khoảng 180 nước áp dụng thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập cá nhân đã trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của nhiều nước, nhất là các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều coi thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn thu ngân sách, thực hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng có một số nước không áp dụng thuế TNCN như: Bahrain, Cô-oét, Brunei,...
Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, số người nộp thuế thu nhập cá nhân khoảng 1 triệu người; năm 1939, số người nộp thuế là 5 triệu người thì đến năm 1980 số người nộp thuế này là khoảng 100 triệu người và hiện nay thuế này mang tính đại chúng và tạo nên nguồn thu chủ yếu tại các nước phát triển. Sự cải cách về thuế ở các nước đã cho thấy sự giảm dần về thuế suất cao nhất cũng như số lượng thuế suất trong biểu thuế suất, nhưng mức tăng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước không giảm đi mà trái lại ngày càng tăng lên. Thuế thu nhập cá nhân chiếm tỷ trọng gần 40% trong tổng thu thuế của Ngân sách Liên bang Mỹ, Tây Ban Nha 38%, Anh 35%, Đan Mạch 50%. Các nước đang phát triển trên thế giới số thu thuế thu nhập cá nhân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu ngân sách nhà nước.
1.2. Sự ra đời và hoàn thiện chính sách thuế thu nhập cá nhân ở việt nam
- Thời kỳ phong kiến, thực dân trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945: Thời kỳ này, trên 90% dân số Việt Nam là nông dân. Hai sắc thuế chủ yếu đối với người nông dân là thuế ruộng (thuế điền) và thuế thân (thuế đinh), thực chất là thuế TNCN ra đời từ năm 1378 dưới thời nhà Trần. Thuế được áp dụng với mọi công dân là nam giới từ 18 tuổi trở lên. Mức thuế phải nộp cho mỗi đinh là 3 quan tiền/năm (tương đương 54 kg thóc). Theo báo cáo của Bộ Hộ (phụ trách thu chi tài chính quốc gia) thời Gia Long năm thứ 18 (năm 1819) trong cả nước gồm 26 tỉnh ghi được vào sổ thuế khoảng 600.000 dân đinh nộp thuế thân và khoảng trên 1 triệu ha ruộng cả công và tư nộp thuế điền.
- Thuế thu nhập ở miền Nam Việt Nam trước 30/04/1975: Từ năm 1972, chính quyền Sài Gòn đã ban hành thuế lợi tức mang tính chất là một khoản thuế thu nhập và phân biệt: Đối với thể nhân là thuế lợi tức tổng hợp của từng hộ gia đình bao gồm cả lợi tức doanh nghiệp tư nhân và thuế lương bổng; Đối với pháp nhân, có thuế lợi tức công ty và tiền lời được chia về chứng khoán.
- Thuế lợi tức ở miền Bắc Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1990: Từ cuối năm 1951, trong chính sách thuế đầu tiên dưới chính quyền Cách mạng, tuy chưa có thuế TNCN nhưng có thuế lợi tức, một dạng thuế TNCN chỉ đánh vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (năm 1991): Cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện nền kinh tế mở, sản xuất kinh doanh trong nước và đầu tư nước ngoài đều tăng mạnh, đời sống kinh tế xã hội có những bước chuyển biến đáng kể, nhưng kèm theo đó là sự phát sinh chênh lệch về mức sống ngày càng rõ rệt, đã xuất hiện mâu thuẫn mới về tiền lương, tiền công giữa các đơn vị, nhất là khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh đó, hệ thống chính sách thuế được cải cách bước 1 (năm 1990), bên cạnh Luật Thuế lợi tức áp dụng đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, Quốc hội uỷ quyền cho Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ngày 27/12/1990 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/04/1991, nhằm động viên sự đóng góp của những cá nhân có thu nhập cao. Trong quá trình thực hiện đến nay Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã có năm lần sửa đổi, bổ sung vào tháng 6/1994, tháng 2/1997, tháng 7/1999, tháng 5/2001 và tháng 3/2004. Các lần sửa đổi Pháp lệnh thuế TNCN nêu trên đã mở rộng phạm vi thu thuế thu nhập cá nhân sang các khu vực hưởng lương khác tại các doanh nghiệp trong nước và một số cơ quan của nhà nước, cá nhân có thu nhập cao, tăng cường công tác quản lý thu nộp thuế, nhưng chủ yếu các lần sửa đổi vẫn là sửa mức khởi điểm tính thuế, thuế suất, giãn cách thu nhập chịu thuế giữa các bậc thuế của biểu thuế. Thuế TNCN nước ta có đóng góp ngày càng tăng vào tổng số thu từ thuế cho NSNN.
Như vậy, ở Việt Nam cho đến nay chưa có Luật thuế thu nhập cá nhân như các quốc gia khác trên thế giới, mà chỉ có Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành được thực hiện theo Pháp lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH11 ngày 24/03/2004 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Nghị định số 147/NĐ-CP ban hành ngày 23/7/2004 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH11 và Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004, Thông tư số 12/2005/TT-BTC ngày 04/02/2005 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư 81/2004/TT-BTC và Thông tư số 41/2006/TT-BTC ngày 12/5/2006 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 161/2005/QĐ-TTg ngày 30/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc mở rộng thí điểm cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế nhà đất, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và thuế môn bài.
2. KHÁI NIỆM THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
2.1. Khái niệm thu nhập
Hiện nay, chưa có một định nghĩa đầy đủ, tổng hợp nhất về thu nhập, trên thế giới còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thu nhập, tuỳ theo mục đích nghiên cứu các nhà kinh tế có những quan niệm khác nhau về thu nhập dưới các góc độ khác nhau. Chẳng hạn:
- Lý thuyết về sự bổ sung tài sản, thường quan tâm đến sự tăng thêm về tiềm lực kinh tế mà không quan tâm đến tính thường xuyên của thu nhập. Đại diện cho lý thuyết này là G.Schant, coi thu nhập là khả năng kinh tế sẽ được bổ sung cho một người nào đó trong một khoảng thời gian nhất định.
- Hai nhà kinh tế người Anh là R.M.Haig và H.C.Simons đầu thế kỷ XX đưa ra định nghĩa về thu nhập (sau này còn gọi là định nghĩa Haig-Simons) cho rằng thu nhập là tổng giá trị của cải ròng tăng lên của một cá nhân cộng với sự tiêu dùng của người đó trong một thời gian nhất định, thường là một năm.
- Các nhà kinh tế học hiện đại, dựa trên cơ sở định nghĩa Haig-Simons, đưa ra hai quan niệm mới về thu nhập làm cơ sở đánh thuế thu nhập cá nhân, đó là:
Quan niệm “thu nhập bao quát” cho rằng, thu nhập là mọi khoản thu nhập ròng từ các nguồn sau khi đã khấu trừ các chi phí để tạo ra chúng, từ đó hình thành một phương thức tính thuế trên tổng tài sản ròng, nghĩa là đánh thuế vào tất cả các lợi ích nhận được, bao gồm cả các lợi ích ngẫu phát-lợi ích có tính chất nhất thời.
Quan niệm “thu nhập hạn hẹp” dựa trên cơ sở thu nhập chỉ giới hạn trong những lợi ích phát sinh lặp đi lặp lại, có tính chất liên tục để hình thành một phương thức tính thuế thu nhập dựa trên các nguồn phát sinh thu nhập.
Đại diện cho trường phái này là nhà kinh tế học người Mỹ Paul.A.Samuelson đã đưa ra một khái niệm thu nhập tương đối hoàn chỉnh: Thu nhập là tổng số tiền kiếm được hoặc thu góp được trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Thuật ngữ “tiền” ở đây được hiểu là những khoản thu dưới dạng tiền tệ hay hiện vật được tính thành tiền, nó bao gồm cả phần sản xuất để tự tiêu dùng, nhận được từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, từ lao động hoặc không từ lao động, từ quyền sở hữu về tài sản, về tiền mà có hoặc tiêu dùng các dịch vụ không phải thanh toán.
- Về kinh tế, khái niệm thu nhập thường dựa trên cơ sở “lý thuyết về nguồn tài sản” và “lý thuyết về sự tăng thêm tài sản thuần tuý”.
Theo lý thuyết về nguồn tài sản thì thu nhập là tổng giá trị của những của cải, tài sản được bổ sung hàng năm cho từng người hoặc từng doanh nghiệp từ những nguồn kinh doanh hay lao động ổn định mang lại.
Theo lý thuyết về sự tăng thêm tài sản thuần tuý thì thu nhập là tổng đại số các giá trị trên thị trường của các nguồn lợi được hưởng dưới dạng tiêu dùng và những thay đổi giá trị thuộc các nguồn sở hữu trong một khoảng thời gian nhất định.
Trong đó, trường phái thứ hai (thu nhập theo lý thuyết về sự tăng thêm tài sản thuần tuý) được nhiều chuyên gia kinh tế ủng hộ hơn, nhưng nó có nhược điểm là nếu xác định thu nhập căn cứ vào thu nhập quy đổi từ tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ do tự sản xuất hay sở hữu tài sản thì khó thuyết phục để người nộp thuế tuân thủ. Mặt khác, theo trường phái này cũng gây khó khăn cho cơ quan quản lý và định kỳ phải xác định giá trị ban đầu, giá trị tăng thêm trong tổng số tài sản của người nộp thuế.
- Về thuế, dựa vào nguyên tắc sự gia tăng giá trị phải thực sự phát sinh trước khi nó được đưa vào tính thu nhập, mỗi nước đưa ra định nghĩa riêng trong luật thuế thu nhập của nước mình. Có thể khái quát: Thu nhập là những khoản thu dưới dạng tiền tệ hoặc hiện vật của tổ chức hoặc cá nhân nhận được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, từ lao động, từ quyền sở hữu, sử dụng tài sản, tiền vốn mà có hoặc các khoản thu nhập khác mà xã hội dành cho.
2.2. Phân loại thu nhập
Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu hay đáp ứng các yêu cầu quản lý, các khoản thu nhập thường được phân loại dựa theo các tiêu thức chủ yếu sau đây: nguồn tạo ra thu nhập, tính đều đặn hay không đều đặn của việc phát sinh thu nhập của các chủ thể, phạm vi lãnh thổ phát sinh thu nhập, chủ thể được hưởng thu nhập và tính pháp lý của thu nhập.
- Căn cứ vào nguồn tạo ra thu nhập, có các loại:
+ Thu nhập từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm cả thu nhập từ những dịch vụ, hành nghề mang tính chất độc lập của các thầy thuốc, bác sỹ, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sỹ, kiểm toán viên, ca sỹ, nghệ sỹ…
+ Thu nhập từ lao động chân tay hay trí óc là thu nhập từ tiền công, tiền lương, tiền thưởng, thu nhập từ hiện vật hay phúc lợi nhận được do đối tượng sử dụng lao động trả.
+ Thu nhập từ tài sản hoặc tiền vốn là thu nhập từ cho thuê tài sản, tiền bản quyền, từ góp vốn như lãi cổ phần, lãi được chia dưới mọi hình thức, thu nhập từ việc cho vay (bao gồm lãi trái phiếu, lãi tiền gửi ngân hàng, lãi trái phiếu công ty, lãi tín phiếu và lãi từ các khoản cho vay khác), thu từ chuyển nhượng tài sản (là thu nhập từ việc chuyển nhượng các cổ phần, trái phiếu công ty, tín phiếu, trái phiếu, thu nhập từ chuyển nhượng quyền tham gia góp vốn và tài sản khác).
+ Thu nhập từ đầu tư, thu nhập từ thừa kế tài sản.
+ Thu nhập khác: là thu nhập từ quà tặng, trúng thưởng xổ số, thu nhập nhận được từ hội thảo khoa học, hoa hồng môi giới, giảng bài, tham gia đề tài nghiên cứu và các khoản thu nhập khác.
- Căn cứ vào tính đều đặn hay không đều đặn của việc phát sinh thu nhập của các chủ thể, có thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên.
+ Thu nhập thường xuyên là những khoản thu nhập phát sinh thường xuyên, có tính đều đặn và ổn định trong một khoảng thời gian nhất định và có thể dự tính được (như tiền công, tiền lương,...);
+ Thu nhập không thường xuyên là các khoản thu nhập chỉ phát sinh đột xuất, theo từng lần, từng đợt riêng lẻ, không có tính chất đều đặn trong thời kỳ nhất định (như trúng thưởng sổ xố, thu nhập về chuyển giao công nghệ,...).
- Căn cứ vào chủ thể được hưởng thu nhập, có thu nhập cá nhân, thu nhập công ty (hay thu nhập doanh nghiệp), thu nhập của Chính phủ,…
- Căn cứ phạm vi lãnh thổ phát sinh thu nhập, có thu nhập phát sinh ở trong nước và thu nhập phát sinh từ nước ngoài.
- Căn cứ vào tính pháp lý của thu nhập, mà chúng có thể được chia thành thu nhập hợp pháp và thu nhập không hợp pháp.
+ Thu nhập hợp pháp là thu nhập được tạo ra từ hoạt động hợp pháp và được Nhà nước kiểm sóat, bảo vệ.
+ Thu nhập không hợp pháp là thu nhập được tạo ra từ hoạt động bất hợp pháp nên Nhà nước không thể kiểm sóat được và do đó không được pháp luật bảo vệ.
Việc phân loại, phân tích về nguồn gốc, tính chất củ