Sau 15 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh lên nhiều.Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường, đát nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động, nhân dân ta có phẩm chất tốt đẹp. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hòa bình, sự hợp tác liên kết quốc tế và những su thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đó là cơ hội lớn Hơn nữa, thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, khoa học công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa là một xu hướng khách quan, lôi cuốn ngày càng nhanh nhiều nước tham gia Song Đảng ta cũng chỉ rõ: “Nước ta là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong khio cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu chúng ta không cố gắng nhanh chóng vươn lên sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế”.
21 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2434 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tìm hiểu và phân tích bối cảnh xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nêu và phân tích các chương trình phát triển cộng đồng hiện nay mà anh chị biết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN
KHOA KHUYẾN NÔNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
MÔN: PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
Chuyên đề:
Tìm hiểu và phân tích bối cảnh xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nêu và phân tích các chương trình phát triển cộng đồng hiện nay mà anh chị biết
LỚP: k41 – KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Thái Nguyên: 2011
DANH SÁCH NHÓM SINH VIÊN
1. Đoàn Hồng Ánh
2. Hứa Thị Biền
3. Nguyễn Thị Mận
4. Hà Thị Mười
5. Đặng Văn Pết
6. Hoàng Văn Thắng
7. Nguyễn Thị Kim Thu
8. Nguyễn Thị Tịnh
9. Nguyễn Duy Tiềm
10. Nguyễn Thanh Tùng
11. Nguyễn Viết Cẩm
TỔNG QUAN
I. Khái quát chung bối cảnh xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
II. Xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Chính trị.
Kinh tế.
Văn hóa.
Giáo dục.
Y tế.
III. Phát triển cộng đồng.
Các chương trình phát triển cộng đồng.
Phân loại các chương trình phát triển cộng đồng.
IV. Định hướng, chiến lược của Đảng về con đường xây dựng phát triển xã hội Việt Nam.
I. Khái quát chung bối cảnh xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Sau 15 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh lên nhiều.Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường, đát nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động, nhân dân ta có phẩm chất tốt đẹp. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hòa bình, sự hợp tác liên kết quốc tế và những su thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đó là cơ hội lớn… Hơn nữa, thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, khoa học công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa là một xu hướng khách quan, lôi cuốn ngày càng nhanh nhiều nước tham gia… Song Đảng ta cũng chỉ rõ: “Nước ta là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong khio cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu chúng ta không cố gắng nhanh chóng vươn lên sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế”.
II. Xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1. Chính trị.
Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế đạt nhiều kết quả tích cực, vị thế của nước ta được nâng cao trên trường quốc tế
Chúng ta không bao giờ được quên rằng, ổn định chính trị chính là ổn định lòng tin và sự tín nhiệm của nhân dân, là ổn định thái độ ủng hộ của nhân dân đối với chính phủ.
1.1 T ình hình chung
Nâng cao chất lượng, tăng cường tiềm lực cho quân đội, công an, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được quan tâm chỉ đạo. Việc phối hợp giữa các cấp, các ngành chức năng và tăng cường đối thoại giữa cơ quan hành chính với người khiếu nại, tố cáo đã góp phần xử lý dứt điểm nhiều vụ việc, trong đó có những vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài. Công tác đối ngoại được triển khai đồng bộ, toàn diện, cả ngoại giao chính trị, kinh tế và văn hóa; kết hợp đối ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Hoạt động đối ngoại của lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác, tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, cùng có lợi, tạo dựng vị thế mới của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Những kết quả nổi bật của các Hội nghị Cấp cao ASEAN 16, Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị các bộ trưởng ASEAN về các trụ cột kinh tế, văn hóa và xã hội... được dư luận quốc tế và trong nước đánh giá cao. Công tác hội nhập quốc tế được triển khai tích cực và chủ động với những kết quả thiết thực. Những kết quả này đã góp phần nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam, tạo thêm điều kiện thuận lợi và nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2 An ninh quốc phòng
Khu vực Đông Nam Á nổi lên là sự phức tạp trong ứng xử vấn đề Biển Đông, sự tranh chấp ảnh hưởng của các nước lớn ngày càng gia tăng, tạo nguy cơ mất ổn định, thậm chí căng thẳng trong các quan hệ song phương, đa phương.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vừa có những thuận lợi rất cơ bản, lại vừa phải đối diện với những nguy cơ, thách thức to lớn, nhất là khi đất nước tham gia sâu hơn vào hợp tác quốc tế.
Những nhân tố trên tác động thường xuyên, trực tiếp đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi chúng ta phải có phương thức và giải pháp thích hợp và hữu hiệu trong tình hình mới. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn nâng cao cảnh giác, nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù thấy được tính chất phức tạp, quyết liệt trong cuộc đấu tranh này, đoàn kết, kiên quyết đánh bại chúng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Là cái nhìn đúng đắn về chính trị và đường lối của Đảng, chính phủ nước ta là rất quan trọng
Chúng ta xác định, chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
1.3 Dự đoán tình hình chính trị trong thời gian tới:
- Mâu thuẩn lợi ích gây khủng hoảng xã hội tăng cao.
- Quá trình tự diễn tiến và diễn biến hòa bình tiếp tục xảy ra.
- Chính quyền sẽ gia tăng đàn áp phong trào đối lập, và duy trì chính sách thân Trung Quốc.
- Tình hình tham nhũng vẫn lan tràn do cơ chế chính trị
- Chính trị Việt Nam sẽ thay đổi theo tình tình chính trị Trung quốc.
=>Có lẽ tình hình chính trị Việt Nam sẽ thay đổi rõ rệt trong vòng 10- 20 năm nữa.
2. Kinh tế.
2.1. Bối cảnh kinh tế.
Đất nước ta thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 trong bối cảnh kinh tế thế giới vừa ra khỏi giai đoạn khó khăn nhất của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái, bước đầu phục hồi nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức. Mục tiêu tổng quát là nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng tăng trưởng, ngăn chặn lạm phát cao trở lại, tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh.
2.2. Đã ngăn chặn được suy giảm, kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao.
Mặc dù sau khủng hoảng, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, nhưng kinh tế nước ta đã sớm ra khỏi tình trạng suy giảm và có mức tăng trưởng khá cao. GDP cả năm 2010 tăng khoảng 6,7%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Khu vực nông nghiệp tăng 2,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 7,6%, dịch vụ tăng 7,5%. Với kết quả này, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 5 năm 2006 - 2010 đạt khoảng 7%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.160 USD.
Vốn đầu tư phát triển năm 2010 ước tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng khoảng 41% GDP. Kết quả giải ngân vốn Nhà nước khá cao và có tiến bộ trong điều hành, đến hết tháng 9, đạt khoảng 70% và dự kiến cả năm sẽ đạt kế hoạch; nhờ đó sớm hoàn thành nhiều công trình kết cấu hạ tầng và tạo thêm cơ sở sản xuất mới, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phục hồi tăng trưởng.
Năm 2010, có khoảng 85 nghìn doanh nghiệp dân doanh thành lập mới với số vốn đăng ký khoảng 500 nghìn tỷ đồng; bình quân đạt gần 6 tỷ đồng/doanh nghiệp, tăng 125% so với năm 2009, góp phần quan trọng phát triển sản xuất kinh doanh và tạo thêm nhiều việc làm mới.
Tăng trưởng GDP qua các năm
Năm
2008
2009
2010
2011
GDP
6.18%
5,32%
6.7%
7.0%
Thu nhậpBQ USD/năm
1052
1064
1133
1160
2.3 Kinh tế vĩ mô có bước cải thện, cán cân nền kinh tế được đảm bảo giữa xuất khẩu và nhập khẩu
Trong khi sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, cán cân thương mại thâm hụt lớn, bội chi ngân sách năm trước ở mức cao nhất trong những năm gần đây và những tác động phụ của gói kích thích kinh tế năm 2009, việc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô là một thách thức lớn, nhưng nhờ những biện pháp điều hành linh hoạt, phù hợp nên tình hình đã có bước cải thiện.
Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2010 dự kiến vượt 12,7% so với dự toán và tăng 17,6% so với năm 2009, bảo đảm được các nhiệm vụ chi và góp phần giảm bội chi xuống dưới 6%, thấp hơn kế hoạch đề ra (6,2%). Đến hết năm 2010, dư nợ Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,7% GDP, nằm trong giới hạn an toàn.
Chính sách tiền tệ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát, cơ bản bảo đảm được các mục tiêu đã đề ra từ đầu năm: tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 20%, dư nợ tín dụng tăng khoảng 25%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước tăng 19,1%, gấp hơn 3 lần so với kế hoạch. Nhập khẩu được kiểm soát chặt chẽ hơn, tổng kim ngạch nhập khẩu ước tăng 16,5%. Nhập siêu cả năm khoảng 13,5 tỷ USD, dưới 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn tỷ lệ nhập siêu năm 2009 và đạt chỉ tiêu đề ra.
Sản xuất kinh doanh phát triển, cân đối cung cầu được bảo đảm, cùng với các biện pháp tăng cường kiểm soát giá và chống đầu cơ, thị trường giá cả đã dần ổn định. Mức tăng giá tiêu dùng 9 tháng là 6,46%, dự báo cả năm giá tiêu dùng tăng khoảng 8%, tuy chưa đạt mục tiêu Quốc hội đề ra (không quá 7%) nhưng trong bối cảnh kinh tế diễn biến phức tạp, đây là một cố gắng lớn, góp phần giữ ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng và giải quyết việc làm.
2.4. Cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm được đạt những kết quả thiết thực
Cải cách hành chính tiếp tục được coi là một khâu đột phá với các nội dung là hoàn thiện thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy và cải cách thủ tục hành chính. Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội 16 dự án luật, pháp lệnh theo đúng tiến độ, đồng thời đẩy nhanh việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Đề án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính được triển khai đồng bộ; đã công bố Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, đồng thời chuẩn hóa và thống nhất thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền; đang thực hiện đơn giản hoá 258 thủ tục thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, ngành, tập trung vào các lĩnh vực như đất đai, nhà ở, xây dựng, thuế, hải quan.
Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo nguyên tắc tăng tính công khai, minh bạch và giảm phiền hà nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý tốt hơn và tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông, việc ứng dụng công nghệ thông tin... đã phát huy hiệu quả thiết thực. Công tác kiểm tra, xử lý và theo dõi thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật được đẩy mạnh.
Công tác phòng, chống tham nhũng có những tiến bộ cả trong xây dựng thể chế, kiện toàn bộ máy chỉ đạo, thực hiện các giải pháp phòng ngừa và kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử. Các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành và triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh kết hợp với việc tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và thực hiện các cuộc đối thoại đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về hoạt động phòng, chống tham nhũng.
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tập trung vào các lĩnh vực như chi ngân sách, đầu tư xây dựng, quản lý tài sản công, đất đai, tài nguyên. Việc thực hiện cơ chế khoán chi hành chính, cơ chế tự chủ về tài chính, ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục, họp trực tuyến... đã tiết kiệm đáng kể cho ngân sách và các nguồn lực của xã hội.
3. Văn hóa.
Là Văn hóa 54 dân tộc Việt nam hay nói riêng là văn hóa của dân tộc Kinh đại đa số đã có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam, là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất ở trong khu vực Thái Bình Dương. Mặc dù như vậy, nhưng qua ảnh hưởng lớn của Trung Hoa, văn hóa Việt Nam đã lập ra rất nhiều đặc điểm khá giống với những dân tộc của các nước Đông Á, và khác những nước ở khu Thái Bình Dương (như là Campuchia, Lào và Thái Lan) những nơi vốn đã chịu một phần lớn ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Mặc dù ảnh hưởng Trung Hoa được coi là ảnh hưởng lớn nhất của văn hóa ngoại lai trên nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, dân tộc Kinh vẫn giữ gìn được rất nhiều nét văn hóa riêng của mình, mà cho tới ngày hôm nay những phong tục riêng đó vẫn quan trọng vô cùng trong đời sống của người Việt.
Văn hóa Việt Nam đặc biệt là văn hóa miền Bắc rất đa dạng. Nó được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử. Các phong tục như tục nhuộm răng, ăn trầu, các lễ hội như: lễ hội Chùa Hương, giỗ tổ Hùng Vương, hội Lim, hội xuống đồng của người Tày. Ở các dân tộc miền núi có ngày hội tình yêu, đến mỗi dịp Xuân về những đôi trai gái tập trung lại họ chơi các trò chơi như ném Còn, hát Đối...
* Văn hóa làng.
Cùng với truyền thống tốt đẹp, những mặt tích cực, văn hóa làng cũng có những mặt tiêu cực, trong đó có không ít hủ tục lạc hậu. Ðó là khuynh hướng tự cung, tự cấp trong sản xuất, tiêu dùng; đó là nếp sống đóng kín, "đèn nhà ai nhà nấy rạng". Ðó là tàn dư phong kiến còn tồn tại dai dẳng trong đời sống, "phép vua thua lệ làng", "dại bầy hơn khôn độc"... Tuy nhiên, nhìn chung mức hưởng thụ văn hóa ở làng, xã còn thấp. Theo một điều tra xã hội học, chi tiêu của người dân ở TP Hồ Chí Minh dành cho vui chơi, giải trí chiếm 30% thu nhập trong gia đình. Ở Hà Nội, Huế, tỷ lệ đó là 20%. Còn ở nông thôn, mức chi tiêu đó vô cùng nhỏ bé. Hình thức giải trí chủ yếu là xem truyền hình, nghe đài. Báo chí cho bạn đọc nông thôn cũng rất thiếu. Mấy năm nay các địa phương đã quan tâm xây dựng nhà văn hóa thôn. Nhưng hầu hết các nhà văn hóa này mới chỉ là nơi để hội họp, sinh hoạt tập thể. Sách báo, nhạc cụ, và các trang bị, thiết bị phục vụ biểu diễn văn nghệ hầu như không có. Ðiều đáng chú ý là, các đội văn nghệ ở làng, xã, các chiếu chèo ở khu vực đồng bằng sông Hồng, vốn một thời hoạt động rất sôi nổi, nhưng nay thì ít nơi nào duy trì được. Ở miền núi, vùng cao đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc còn khó khăn hơn nhiều.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân, cần quan tâm xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần ở nông thôn. Trong đó, văn hóa làng là nét đặc trưng của văn hóa nông thôn, phải được kế thừa, phát huy. Ðể làm cho văn hóa làng mang những giá trị và sức sống mới, một mặt tiếp tục kế thừa những tinh hoa, thuần phong mỹ tục, mặt khác, loại bỏ những tàn dư phong kiến, những tiêu cực, mặt trái của văn hóa làng xã. Trong phát triển kinh tế nông nghiệp, luôn luôn gắn với xây dựng nông thôn mới, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nông dân. Xây dựng đời sống văn hóa nông thôn có nhiều nội dung, nhưng nổi bật là : nếp sống văn hóa, hành vi đạo đức, bắt đầu từ mỗi gia đình; đáp ứng các nhu cầu hưởng thụ văn hóa, các hoạt động vui chơi giải trí, như xem phim, biểu diễn nghệ thuật, đọc sách báo, xây dựng phong trào văn hóa - văn nghệ quần chúng; củng cố, nâng cao chất lượng các nhà văn hóa thôn, làng; xây dựng hương ước làng với những chuẩn mực phù hợp trong thời kỳ mới, v.v. Xây dựng đời sống văn hóa chính là góp phần tích cực vào công cuộc bảo tồn và chấn hưng văn hóa nước nhà, vì một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
4. Giáo dục.
Giáo dục và đào tạo có bước phát triển. Tích cực triển khai thực hiện đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, cơ chế tài chính, phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và đổi mới phương pháp giảng dạy. Cùng với việc tăng đầu tư của Nhà nước, đã đẩy mạnh xã hội hoá để nâng cấp cơ sở vật chất, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục - đào tạo từ mầm non đến đại học. Đã kết nối internet cho tất cả các trường phổ thông. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia bậc mầm non và các cấp học phổ thông tăng nhanh, 100% tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở; tỷ lệ học sinh bỏ học ở hầu hết các vùng đều giảm, kỷ cương trong thi cử đã được thực hiện tốt hơn. Kiểm soát chặt chẽ hơn việc thành lập mới các trường đại học. Đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội và tích cực triển khai hợp tác đào tạo nước ngoài theo chương trình tiên tiến với các trường đại học.
4.1. Tình hình giáo dục ở các cấp học, bậc học
4.1.1. Giáo dục mầm non
Bước đầu khôi phục và phát triển giáo dục mầm non sau một thời gian dài gặp khó khăn ở nhiều địa phương. Số xã “trắng” về cơ sở giáo dục mầm non giảm rõ rệt. Năm học 2007-2009 đã có 2.6triệu trẻ em ở10.000 cơ sở giáo dục mầm non, số trẻ 5 tuổi học mẫu giáo chiếm 90% số trẻ trong độ tuổi. Tuy vậy, tỷ lệ trẻ ra lớp mẫu giáo ở các vùng khó khăn còn thấp, như ở đồng bằng sông Cửu Long mới đạt 42,7%.
4.1.2. Giáo dục phổ thông
Trong 5 năm qua, số lượng học sinh ở bậc trung học tiếp tục tăng, ở bậc tiểu học giảm dần và đi vào ổn định. Tổng số học sinh phổ thông năm học 2007-2009 là 17,6 triệu. Đáng chú ý là tốc độ tăng số lượng học sinh ở miền núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cao hơn các vùng khác, thể hiện những cố gắng khắc phục tình trạng chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền.
Khối lượng kiến thức cơ bản của học sinh phổ thông hiện nay lớn hơn và rộng hơn so với trước đây, nhất là về các môn khoa học tự nhiên, toán, tin học, ngoại ngữ. Chương trình ở một số môn học đã tiếp cận trình độ tiên tiến trong khu vực. Học sinh Việt Nam đi du học đều được vào thẳng các cấp học tương đương, phần lớn lưu học sinh đều học tốt. Việc đào tạo học sinh giỏi có nhiều thành tích và được các nước đánh giá cao; nhiều học sinh Việt Nam đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế.
Việc xây dựng trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia còn chậm và gặp nhiều khó khăn, thiếu phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm và đặc biệt là thiếu diện tích đất.
4.1.3. Giáo dục nghề nghiệp
Đến nay hầu hết các tỉnh đều có trường dạy nghề, bước đầu phát triển các trường dạy nghề thuộc một số ngành kinh tế mũi nhọn. Mặc dù vậy, quy mô dạy nghề dài hạn và THCN còn thấp so với yêu cầu của thị trường lao động. Cơ cấu ngành nghề đào tạo còn mất cân đối. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phân bố chưa hợp lý, còn tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và các vùng kinh tế trọng điểm.
4.2.Đánh giá tổng quát về tình hình giáo dục
4.2.1 Nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, trước hết là ở giáo dục phổ thông.
Đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, khá hoàn chỉnh bao gồm đủ các cấp học, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình nhà trường và phương thức giáo dục. Năm học 2007-2009 khoảng 22,7 triệu người theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục. Đặc biệt, giáo dục mầm non và dạy nghề được khôi phục và có tiến bộ rõ rệt.
4.2.2 Đã đạt được một số kết quả quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược :
Về nâng cao dân trí: Kết quả xóa mù chữ, phổ cập GD tiểu học đã được duy trì, củng cố và phát huy. Bình đẳng giới trong giáo dục tiếp tục được đảm bảo. Về đào tạo nhân lực: Chất lượng nguồn nhân lực đã có chuyển biến tích cực. Trong những thành tựu tăng trưởng kinh tế của đất nước hơn 10 năm qua có phần đóng góp rất quan trọng của đội ngũ lao động, mà tuyệt đại đa số được đào tạo ở trong nước. Nước ta cũng đã bắt đầu chủ động đào tạo được nguồn nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động.
Về bồi dưỡng nhân tài: Nhà nước và một số ngành, địa phương đã dành một phần ngân sách để triển khai chương trình đào tạo cán bộ trình độ cao trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, quản lý v.v. ở các nước tiên tiến. Số cán bộ này, sau khi tốt nghiệp đã trở về nước công tác và bắt đầu phát huy tác dụng.
4.2.3. Chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn.
Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa phát triển mạnh và có tiến bộ rõ rệt. Chính phủ đã có nhiều chính sách và biện pháp tăng đầu tư cho các vùng khó khăn như chương trình 135, chương trình kiên cố hóa trường, lớp học v.v. Nhờ vậy, cơ sở vật chất của giáo dục ở vùng khó khăn tiếp tục được củng cố, tăng cường. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước hết ở các cấ