Chuyên đề Tín dụng xuất nhập khẩu tại Eximbank Hà Nội - Thực trạng và giải pháp

Hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta trong thời gian qua đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế – xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng chứng tỏ được tầm quan trọng của mình. Góp phần vaò thành công đó phải kể đến là sự tài trợ xuất nhập khẩu của tín dụng ngân hàng. Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng không chỉ mang lại lợi ích cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội và ngay cả bản thân ngân hàng, bởi vì tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Được thành lập và chính thức đi vào hoạt động ngày 27/11/1992, Eximbank Hà Nội đã từng bước khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Công tác tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng trong vài năm trở lại nay đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng còn chứa đựng nhiều điều kiện bất cập có ảnh hưởng xấu tới hoạt động của ngân hàng, đòi hỏi phải được xem xét một cách nghiêm túc để tìm ra giải pháp tháo gỡ khó khăn, làm lành mạnh hoạt động của ngân hàng, thúc đẩy sự tăng trưởng. Qua thời gian thực tập tại Eximbank Hà Nội, tôi thấy việc nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung và biện pháp nhằm tháo gỡ các vướng mắc và hoàn thiện các hoạt động của ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cho phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường trước ngưỡng cửa hội nhập và xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế. Chính vì vậy tôi đã chọn chuyên đề tốt nghiệp của mình là: “Tín dụng xuất nhập khẩu tại Eximbank Hà Nội - Thực trạng và giải pháp”

doc57 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tín dụng xuất nhập khẩu tại Eximbank Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta trong thời gian qua đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế – xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng chứng tỏ được tầm quan trọng của mình. Góp phần vaò thành công đó phải kể đến là sự tài trợ xuất nhập khẩu của tín dụng ngân hàng. Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng không chỉ mang lại lợi ích cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội và ngay cả bản thân ngân hàng, bởi vì tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Được thành lập và chính thức đi vào hoạt động ngày 27/11/1992, Eximbank Hà Nội đã từng bước khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Công tác tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng trong vài năm trở lại nay đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng còn chứa đựng nhiều điều kiện bất cập có ảnh hưởng xấu tới hoạt động của ngân hàng, đòi hỏi phải được xem xét một cách nghiêm túc để tìm ra giải pháp tháo gỡ khó khăn, làm lành mạnh hoạt động của ngân hàng, thúc đẩy sự tăng trưởng. Qua thời gian thực tập tại Eximbank Hà Nội, tôi thấy việc nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung và biện pháp nhằm tháo gỡ các vướng mắc và hoàn thiện các hoạt động của ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cho phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường trước ngưỡng cửa hội nhập và xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế. Chính vì vậy tôi đã chọn chuyên đề tốt nghiệp của mình là: “Tín dụng xuất nhập khẩu tại Eximbank Hà Nội - Thực trạng và giải pháp” Chương I LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN V Ề TÍN DỤNG NGÂN HÀNG Khái niệm Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng – một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với một bên là tất cả các tổ chức cá nhân. Với vai trò trung gian tài chính, ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức tiền gửi và tiền vay. Trên cơ sở đó, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức, các nhân khi các tổ chức này thiếu vốn và cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Qua hoạt động này. Ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại tiền tệ để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh của xã hội. Cơ sở khách quan để hình thành chức năng phân phối lại tiền tệ của tín dụng ngân hàng chính là do đặc điểm tuần hoàn vốn. Trong quá trình tái sản xuất, việc xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân thường xuyên xảy ra, trong khi đó lại có các tổ chức cá nhân khác trong tình trạng thiếu vốn và có nhu cầu cần được bổ sung vốn. Hiện tượng thiếu vốn và thừa vốn phát sinh do có sự chên lệch về thời gian và số lượng giữa các khỏan thu nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ chức, cá nhân trong khi quá trình tái sản xuất, kinh doanh đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Họat động tín dụng của hệ thống NHTM đã phát huy vai trò đối với lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hóa trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tái sản xuất kinh doanh, đồng thời được sử dụng như một công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế chung của đất nước. Phân loại tín dụng ngân hàng Có rất nhiều các tiêu chí khác nhau để phân loại tín dụng ngân hàng. Nhìn chung, ta có thể phân loại như sau: Căn cứ vào thời hạn tín dụng: + Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn tối đa là 2 tháng + Tín dụng trung và dài hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn thông thường lớn hơn 12 tháng. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: + Tín dụng có đảm bảo: Là những khỏan tín dụng mà ngân hàng đòi hỏi người vay phải có cầm cố hoặc thế chấp hoặc bảo lãnh khi vay vốn tại ngân hàng. + Tín dụng không có đảm bảo: Là hình thức tín dụng mà ngân hàng chỉ cho vay dựa trên uy tín, năng lực cũng như phẩm chất của người vay. Ngòai ra, tín dụng ngân hàng còn được phân thành: tín dụng thấu chi, tín dụng tiêu dùng, hay tín dụng ứng trước, ... Các nguyên tắc trong cho vay của Ngân hàng Việc cho vay của các tín dụng Việt Nam phải tuân thủ theo quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng do HNNN Việt Nam ban hành. Theo quy chế này thì khi tiến hành cho vay, ngân hàng và khách hàng phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi: Đây là nguyên tắc cơ bản đầu tiên trong cho vay của ngân hàng, bởi lẽ nguồn vốn mà ngân hàng cho khách hàng vay được huy động từ nền kinh tế. Do đó ngân hàng cũng phải trả lãi cho các nguồn vốn này và ngân hàng chỉ thực sự thực hiện được điều đó khi nhận được cả gốc và lãi từ phía khách hàng. Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích: Đây là nguyên tắc ngân hàng buộc khách hàng phải cam kết khi vay vốn, khi khách hàng thực hiện tốt cam kết này sẽ giúp cho ngân hàng thuận tiện trong việc giám sát khoản vay. Tiền được sử dụng đúng mục đích đúng với dự án đã được thẩm định sẽ mang lại tính khả thi cao và đem lại lợi nhuận không chỉ cho ngân hàng mà cho cả khách hàng. Phải có tài sản tương đương làm đảm bảo cho tiền vay: Để vay vốn tại ngân hàng thì khách hàng phải trình cho ngân hàng các chứng từ, hóa đơn về mua bán hàng hóa. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ xét duyệt và cho vay một lượng tiền tương đương với giá trị hàng hóa hoặc tài sản của khách hàng vay vốn. Đây là nguyên tắc đòi hỏi nghiệp vụ thẩm định của các cán bộ tín dụng khi cho khách hàng vay. Các nguyên tắc khác: Ngòai ra, trong hoạt động tín dụng ngân hàng, cũng cần quan tâm tới kế hoạch, mục tiêu, cũng như phương hướng hoạt động của ngân hàng. Trên cơ sở đó chủ động khai thác nguồn vốn trong nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, đặc biệt là các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu 2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XNK 2.1 Sự cần thiết phát triển hoạt động XNK và nhu cầu tài trợ cho XNK 2.1.1 Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu...mà mỗi quốc gia có thế mạnh trong việc sản xuất một số mặt hàng nhất định. Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm chất lượng cao với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã làm nảy sinh hoạt động thương mại quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài biên giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế bên ngoài, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và nhập khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động xuất nhập khẩu là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động thương mại quốc tế. Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những nét đặc thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ thuật lạc hậu, công nghệ thủ công... đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó tiềm lực xuất khẩu lại lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất cả những điều này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta càng quan trọng hơn. Vai trò của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua một số khía cạnh cơ bản sau: Xuất khẩu Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích các ngành, nghề phát triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ ổn định và mở rộng hơn. Đồng thời, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và sáng tạo trong kinh doanh, sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí, đổi mới công nghệ cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm. Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi hơn nhờ nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra. Nhập khẩu Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể: Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước và thay thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất với chi phí cao hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn địnhvề cung-cầu trong nước và cao hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô. Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất. Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc cung cấp các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng như góp phần định hướng sản phẩm, định hướng thị trường cho xuất khẩu. Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và mở rộng hợp tác quốc tế. Nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu Như đã nói trên, trong nền kinh tế mở các doanh nghiệp luôn phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Họ không chỉ phải cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước mà còn phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng trong cạnh tranh, ngoài việc cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước như sự ưu đãi về thuế, sự điều chỉnh tỉ giá hối đoái phù hợp... các doanh nghiệp còn cần phải có một tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện các hoạt động như đổi mới dây chuyền công nghệ, mua sắm máy móc hiện đại, mua sắm nguyên vật liệu, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành... Song trên thực tế do khả năng tài chính có hạn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nhu cầu tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu nảy sinh từ những đòi hỏi đó và nó gắn liền với các giai đoạn của hoạt động này. Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng hết sức phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa các nước phát triển, thương mại giữa các nước đang phát triển, thương mại giữa các nước phát triển và đang phát triển...) nên để phù hợp với điều kiện Việt Nam cũng như với đề tài nghiên cứu, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động thương mại quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển. Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển chủ yếu là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ. Đây là những hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ phân tích nhu cầu, kí kết hợp đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử... đến thanh toán tiền hàng. Nhu cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết kế mẫu mã, sản xuất và cung cấp công trình. Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển chủ yếu là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua sơ chế... Và nhu cầu tài trợ thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời. Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường kéo dài từ nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ thường nảy sinh ở nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể: Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Để hoàn thành tốt giai đoạn này các chuyên gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày, giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài liệu thiết kế và tính toán chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt động này không phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn hẹp. Giai đoạn ký kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy tín cao ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc bảo đảm hoàn thành công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng hoặc hoàn thành công trình không đúng như thoả thuận. Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu là người nước ngoài đang gặp khó khăn về tài cính ,nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng của mình cung cấp tín dụng tương đương với số tiền đật cọc và nhà nhập khẩu có ngiã vụ chi trả cho khoản tín dụng đó Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ tiến hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn như, nhà máy, xí nghiệp... việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá mức đặt cọc. Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán tiếp theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu cầu tài chính cao về vật tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản thanh toán giữa chừng. Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy sinh các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm... tuỳ theo điều kiện cung ứng. Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá được bàn giao tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp chạy thử cho tới khi được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán. Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu được bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán. Giai đoạn thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh toán trong nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của họ có thể chấp nhận được .Trong thời gian chờ được thanh toán nhà xuất khẩu thường có nhu cầu được tài trợ để đảm bảo vốn cho quá trình tái sản xuất tiếp theo . Nhu cầu tài trợ nhập khẩu Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để đẩy mạnh hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ để mua hàng khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt. Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: Ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của mình để tiến hành đấu thầu một cách phù hợp. Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, các nhà nhập khẩu cần được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất khẩu.... Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư. Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập khẩu. Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được. Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì nhà nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian từ khi nhập hàng về tới khi hàng hoá được tiêu thụ. Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà nhập khẩu sẽ có nhu cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản phẩm mới tới khi tiêu thụ được các sản phẩm làm ra và thu được tiền hàng. Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho vay xuất nhập khẩu ở trên ta có thể khẳng định rằng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một nhu cầu tài trợ rất lớn. Vậy thì để đáp ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới đây là một số nguồn tài trợ thường dùng cho xuất nhập khẩu. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản, do vậy nó cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những nguồn tài trợ thường được sử dụng là: Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ được thực hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các công cụ chủ yêú là kỳ phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng chuyển thành tiền mặt cao (thông qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời hạn. Tuy nhiên, các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân hàng đứng ra chấp nhận hay bảo đảm. Các khoản phải nộp phải trả: Bao gồm: thuế phải nộp nhưng chưa nộp, phải trả cán bộ công nhân viên và các khoản phải trả phải nộp khác. Đây là nguồn tài trợ mang tính thời điểm cao vì nó thường nhỏ và ít ổn định. Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có thể là vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ phần hay vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân. Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên và phần lợi nhuận để lại. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có thể giảm được hệ số nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài trợ này có hạn chế là qui mô không lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc giữ lại lợi nhuận cao. Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu. Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp. Sử dụng phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể huy động vốn cho hoạt động kinh doanh mà không dẫn đến phải chia quyền kiểm soát doanh nghiệp như khi sử dụng cổ phiếu thường. Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động kinh doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã nói trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó. Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay có đảm bảo... để thu mua dự trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để đầu tư dự án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ... Tuỳ vào từng doanh nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định sao cho thuận lợi với cả hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng ngân hàng là có khả năng linh hoạt về lãi suất cũng như thời hạn. Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ...Hiện nay các nguồn này thường cũng được sử dụng thông qua các Ngân hàng. Như vậy, nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu rất đa dạng nhưng trong đó nguồn tín dụng ngân hàng nhờ có những ưu thế riêng nên vẫn nắm giữ một vị trí đặc biệt đối với sự phát triển của đất nước nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu Khái niệm tín dụng ngân hàng Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng.Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật. Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ
Tài liệu liên quan