Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, Kế Toán- một môn khoa học cũng đã có sự thay đổi,phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp.để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất xã hội.Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí,đIều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kế toán với tư cách là công cụ quản lí kinh tế ngày càng được khai thác tối đa sức mạnh nhằm điều chỉnh và kiểm soát sự vận hành của nền kinh tế trong thời đại mới. Đi đôi với sự đổi mới trong cơ chế quản lí kinh tế, sự đổi mới của hệ thống kế toán doanh nghiệp đã tạo ra cho kế toán một bộ mặt mới, khẳng định được vị trí,vai trò của kế toán trong các công cụ quản lí. Trong công tác kế toán, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một phần hành quan trọng. Các thông tin ở các mức độ khác nhau của phần hành đã giúp Nhà nước quản lí tốt các doanh nghiệp; đối với các doanh nghiệp để quản lí tốt chi phí, giá thành sản phẩm nhằm mang lại nhiều lợi nhuận cho hoạt động sản xuất kinh của mình; đối với bên thứ ba là tìm cơ hội làm ăn, đầu tư, hợp tác liên doanh. Xuất phát từ tầm quan trọng đó của công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, sau hai tháng thực tập tại Công ty Lương thực cấp 1 Lương yên, với kiến thức thu nhận được trong thời gian học tập, nghiên cứu tại trường và với sự hướng dẫn giúp đỡ của thầy giáo Thái Bá Công và các anh chị trong phòng kế toán Công ty, tôi đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: " Tổ chức công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mì ăn liền ở Công ty Lương thực cấp 1 Lương yên ".
Trong phạm vi bản chuyên đề này, tôi xin được trình bày một số vấn đề chính như sau:
Phần I: Một số vấn đề lí luận về công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong Doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực trạng công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mì ăn liền ở Công ty Lương thực cấp 1 Lương yên Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mì ăn liền ở Công ty Lương thực cấp I Lương Yên.
97 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tổ chức công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mì ăn liền ở Công ty Lương thực cấp 1 Lương yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Website: Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, Kế Toán- một môn khoa học cũng đã có sự thay đổi,phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp...để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất xã hội.Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí,đIều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kế toán với tư cách là công cụ quản lí kinh tế ngày càng được khai thác tối đa sức mạnh nhằm điều chỉnh và kiểm soát sự vận hành của nền kinh tế trong thời đại mới. Đi đôi với sự đổi mới trong cơ chế quản lí kinh tế, sự đổi mới của hệ thống kế toán doanh nghiệp đã tạo ra cho kế toán một bộ mặt mới, khẳng định được vị trí,vai trò của kế toán trong các công cụ quản lí. Trong công tác kế toán, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một phần hành quan trọng. Các thông tin ở các mức độ khác nhau của phần hành đã giúp Nhà nước quản lí tốt các doanh nghiệp; đối với các doanh nghiệp để quản lí tốt chi phí, giá thành sản phẩm nhằm mang lại nhiều lợi nhuận cho hoạt động sản xuất kinh của mình; đối với bên thứ ba là tìm cơ hội làm ăn, đầu tư, hợp tác liên doanh... Xuất phát từ tầm quan trọng đó của công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, sau hai tháng thực tập tại Công ty Lương thực cấp 1 Lương yên, với kiến thức thu nhận được trong thời gian học tập, nghiên cứu tại trường và với sự hướng dẫn giúp đỡ của thầy giáo Thái Bá Công và các anh chị trong phòng kế toán Công ty, tôi đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: " Tổ chức công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mì ăn liền ở Công ty Lương thực cấp 1 Lương yên ".
Trong phạm vi bản chuyên đề này, tôi xin được trình bày một số vấn đề chính như sau:
Phần I: Một số vấn đề lí luận về công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong Doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực trạng công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mì ăn liền ở Công ty Lương thực cấp 1 Lương yên Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mì ăn liền ở Công ty Lương thực cấp I Lương Yên.
PHẦN THỨ NHẤT
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I. CHI PHÍ SẢN XUẤT, PHÂN LOẠI CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ QUẢN LÍ CHI PHÍ SẢN XUẤT
1. Chi phí sản xuất:
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghịêp phải huy động,sử dụng các nguồn tài lực, vật lực(lao động,vật tư,tiền vốn…) Các nguồn sử dụng có thể tồn tại dưới hình thức hữu hình hoặc vô hình như nguyên vật liệu,nhân công trực tiếp.... và thông qua tổng hợp các nguồn sử dụng theo một mục đích nào đó có thể là sản phẩm, dự án... ĐIều đó có nghĩa là doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cho quá trình hoạt động của mình.Có thể nói: chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động sống cần thiết và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong một thời kì,biểu hịên bằng tiền.
Như vậy, chi phí sản xuất có một ý nghĩa rất quan trọng gắn liền với quá trình hoạt động sản xuất của các đơn vị sản xuất và các doanh nghiệp công nghiệp . Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thực chất là sự vận động của các yếu tố sản xuất đã bỏ ra và sự biến đổi chúng với mục đích thành sản phẩm cuối cùng.
2. Phân loại chi phí sản xuất:
Ở doanh nghiệp chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại khác nhau. Tuỳ theo góc độ xem xét chi phí và mục đích quản lí chi phí mà chúng ta lựa chọn tiêu thức phân loại cho thích hợp. Trong phạm vi bản chuyên đề này, tôi xin trình bày một số cách phân loại chi phí sản xuất có liên quan nhiều tới công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
* Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí:
Theo cách phân loại này những khoản chi phí có chung tính chất kinh tế được xếp chung vào một yếu tố không kể chi phí đó phát sinh ở địa điểm nào và dùng vào mục đích gì trong sản xuất kinh doanh.
Phân loại theo cách này, chi phí được chia thành các yếu tố sau:
- Chi phí nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ chi phí về các loại đối tượng lao động là nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản... mà doanh nghiệp đã sử dụng cho các hoạt động sản xuất trong kì.
- Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ số tiền công,phụ cấp và các khoản trích trên tiền lương theo quy định của lao động trực tiếp sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện lao vụ trong kỳ.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định sử dụng cho sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ số tiền doanh nghiệp đã chi trả về các loại dịch vụ mua từ bên ngoài như tiền điện, tiền nước, tiền bưu phí... phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí khác bằng tiền: bao gồm toàn bộ số chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất ngoài 4 yếu tố chi phí đã nêu ở trên.
Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế có tác dụng quan trọng trong quản lí chi phí sản xuất, nó cho biết kết cấu tỉ trọng của từng yếu tố chi phí sản xuất là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất; làm cơ sở cho việc dự trù hay xây dựng kế hoặch cung ứng vật tư,tiền vốn,huy động sử dụng lao động…
* Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi phí:
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí trong sản xuất để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản mục chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng mục đích và công dụng, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kì được chia ra làm các khoản mục chi phí sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm chi phí về nguyên liệu vật liệu chính(kể cả nửa thành phẩm mua ngoàI), vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng vào mục đích trực tiếp sản xuất sản phẩm.Không tính vào khoản mục này những chi phí nguyên vật liệu dùng vào mục đích phục Vụ nhu cầu sản xuất chung hay cho những hoạt động ngoàI lĩnh vực sản xuất.
- Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm chi phí về tiền lương,phụ cấp phảI trả và các khoản trích BHXH,BHYT và KPCĐ trên tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất theo quy định.Không tính vào khoản mục này khoản tiền lương phụ cấp và các khoản trích trên tiền lương của nhân viên phân xưởng nhân viên bán hàng,nhân viên quản lý doanh nghiệp hay nhân viên khác.
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất chung ở các phân xưởng, đội, trại sản xuất ngoài 2 khoản mục chi phí trực tiếp đã nêu trên. Bao gồm 6 điều khoản:
+ Chi phí nhân viên ( phân xưởng, đội, trại sản xuất ): Phản ánh các chi phí liên quan và phải trả cho nhân viên phân xưởng (đội, trại ) như chi phí về tiền lương, phụ cấp và các khoản trích BHXH,BHYT,KPCĐ trên tiền lương của nhân viên quản lí, nhân viên thống kê, nhân viên tiếp liệu, nhân viên bảo vệ…tạI phân xưởng sản xuất theo quy định.
+chi phí vật liệu: Gồm vật liệu dùng để sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định, vật liệu văn phòng và những vật liệu dùng cho nhu cầu quản lí chung ở phân xưởng, đội sản xuất.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất: Phản ánh chi phí về công cụ dụng cụ dùng cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng, đội sản xuất như: khuôn mẫu, dụng cụ gá lắp, dụng cụ cầm tay, dụng cụ bảo hộ lao động....
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh toàn bộ số tiền trích khấu hao của tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, tài sản cố định thuê tài chính sử dụng ở các phân xưởng, đội sản xuất như khấu hao máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải, truyền dẫn, nhà xưởng....
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Gồm những khoản chi trả về lao vụ, dịch vụ mua từ bên ngoài để phục vụ cho hoạt động sản xuất chung ở phân xưởng, đội sản xuất như chi phí về điện, nước, khí nến, hơi,chi phí điện thoại, fax, chi phí sửa chữa tài sản cố định thuê ngoài...
+ Chi phí khác bằng tiền: Bao gồm các khoản chi bằng tiền ngoài các khoản đã kể trên, sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng sản xuất.
Phân loại chi phí theo mục đích và công dụng kinh tế có tác dụng phục Vụ cho việc quản lý chi phí theo định mức; Cung cấp số liệu cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo khoản mục,là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản xuất và lập kế hoạch giá thành sản phẩm cho kì sau.
*Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ sản xuất trong kì:
Chi phí sản xuất được chia làm hai loại:
- Chi phí khả biến ( biến phí ): là những chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỉ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kì. Thuộc loại chi phí này là chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp...
- Chi phí cố định ( định phí ): là chi phí không thay đổi về tổng số dù có sự thay đổi trong mức độ hoạt động của sản xuất hoặc khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ sản xuất trong kì. Tuy nhiên nếu trong kì có sự thay đổi về khối lượng sản phẩm sản xuất thì chi phí cố định trên một đơn vị sản phẩm sẽ biến động tương quan tỉ lệ nghịch với sự biến động của sản lượng.
Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí khả biến và chi phí cố định có tác dụng lớnđối với quản trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc các quyết định quản lí cần thiết để hạ giá thành sản phẩm tăng hiệu quả kinh doanh.
3. Vấn đề quản lí chi phí sản xuất:
Bất kì một Nhà nước nào cũng có chức năng quản lí kinh tế. Quản lí chính là nhằm giải phóng và phát huy mọi tiềm năng của đất nước vào việc phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lí, tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế. Song hiệu quả quản lí cao hay thấp một phần phụ thuộc vào trình độ và năng lực quản lí của Nhà nước về kinh tế, mặt khác còn phụ thuộc vào trình độ cũng như năng lực quản lí kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Do vậy, một trong những chức năng của Nhà nước là quản lí các doanh nghiệp.
Kế toán với tư cách là một công cụ quản lí của Nhà nước, đảm bảo phục vụ thông tin cho công tác quản lí kinh tế nói chung và quản lí doanh nghiệp nói riêng ở tầm vĩ mô. Do vậy thông tin kế toán phải đảm bảo toàn diện, khái quát và kịp thời tình hình hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp chính là "một cỗ máy" sản xuất ra giá trị gia tăng, yếu tố đầu vào có ý nghĩa quan trọng, quyết định trong quá trình sản xuất chế biến của doanh nghiệp. Kế toán phải đảm bảo cung cấp thông tin về các yếu tố chi phí cho quá trình sản xuất đó là nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung nhằm cung cấp cho Nhà nước thông tin doanh nghiệp đã chi ra cái gì? mỗi loại chi phí là bao nhiêu? Từ đó giúp Nhà nước biết được tỉ trọng từng loại chi phí, Giám đốc dự toán chi phí, làm cơ sở để lập dự toán cho kì sau, tính thu nhập quốc dân. Các thông tin đó giúp Nhà nước quản lí các doanh nghiệp, là cơ sở để ban hành chính sách chế độ tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động, hạ thấp hao phí lao động cá biệt từ đó góp phần hạ thấp hao phí lao động toàn xã hội.
Đối với hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường thì việc hạ thấp hao phí lao động cá biệt có ý nghĩa to lớn là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vấn đề quan trọng trong quản lí vi mô của doanh nghiệp là quản lí chi phí một cách chi tiết chặt chẽ. Thông tin kế toán trở thành yếu tố quan trọng giúp cho công tác quản lí các chi phí đầu vào cũng như toàn bộ quá trình sản xuất chế biến. Để đáp ứng được các yêu cầu đó đòi hỏi phải tập hợp được các chi phí của mỗi loại là bao nhiêu để so với kế hoạch xác định được mức tiết kiệm hay lãng phí trong toàn bộ chi phí chi ra cũng như trong từng khâu, từng khoản mục. Do đó thông tin kế toán phải cung cấp cho nhà quản lí biết được chi phí chi ra làm việc gì? hết bao nhiêu? Như vậy thông tin chi phí theo khoản mục đã giúp cho nhà quản lí doanh nghiệp biết được một cách chi tiết, cụ thể các chi phí chi ra và tác dụng các chi phí đó. Từ đó hạn chế được các chi phí lãng phí. Mặt khác, phân loại chi phí theo khoản mục cho phép xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau tới giá thành sản phẩm, phục vụ cho công tác lập kế hoạch và phân tích đánh giá nhằm mục đích không ngừng hạ thấp giá thành sản phẩm. Một chỉ tiêu quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên để hạn chế được các chi phí lãng phí và xác định dược giá thành sản phẩm, doanh nghiệp còn phải thu nhận được thông tin chi phí theo địa điểm cũng như nơi gánh chịu chi phí, bởi lẽ thông tin chi phí theo khoản mục chỉ xác định được chi phí chi ra lãng phí cần hạn chế, song không thể biết được cần tiết kiệm chi phí ở bộ phận nào, địa điểm phát sinh cụ thể nào. Hơn nữa, thông tin kế toán về chi phí theo địa điểm phát sinh còn là cơ sở để khuyến khích vật chất từ đó kích thích sản xuất phát triển.
II. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM, CÁC LOẠI GIÁ THÀNH SẢN PHẨM DOANH NGHIỆP
Giá thành sản phẩm là chi phí sản xuất tính cho một khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng tàI sản, vật tư, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng như tính đúng đắn của các giảI pháp tổ chức,kinh tế, kỹ thuật và công nghệ mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản xuất, hạ thấp chi phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.Giá thành còn là một căn cứ quan trọng để định giá bán và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất.
Sự tồn tại của giá thành sản phẩm có ý nghĩa và tác dụng to lớn trong công tác quản lí vi mô doanh nghiệp mà trước hết nó là cơ sở để xác định trị giá hàng tồn kho trong Báo cáo tài chính, xác định giá trị thực tế của sản phẩm bán ra để tính lãi lỗ trong kì. Giá thành đơn vị còn là cơ sở đề ra các quyết định trong việc loại bỏ hay chấp thuận các đơn đặt hàng đặc biệt hơn nữa còn giúp các doanh nghiệp lập kế hoạch và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch về giá thành tại doanh nghiệp.
* Các loại giá thành sản phẩm:
a)phân loại giá thành theo cơ sở số liệu và thời đIểm tính giá thành:
Dưới giác độ quản lí, cần phân biệt giữa giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế của sản phẩm.
- Giá thành kế hoạch của sản phẩm là giá thành được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạchvà sản lượng kế hoạch.
- Giá thành định mức của sản phẩm là giá thành được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm.
- Giá thành thực tế của sản phẩm là giá thành được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kì và sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất ra trong kì.
b)phân loạI giá thành theo phạm vi các chi phí cấu thành:
Xét về mặt hạch toán và theo quá trình sản xuất kinh doanh trong hạch toán doanh nghiệp công nghiệp, giá thành sản phẩm được chia làm 2 loại: giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ.
- Giá thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung tính cho những sản phẩm, công việc hoặc lao vụ đã hoàn thành.
- Giá thành toàn bộ của sản phẩm bao gồm giá thành sản xuất của sản phẩm cộng thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lí doanh nghiệp tính cho sản phẩm đó.
III. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH ĐẦY ĐỦ CHÍNH XÁC TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các loại hình doanh nghiệp của nước ta đang trên đà phát triển. Các doanh nghiệp đã vượt qua những khó khăn ,bỡ ngỡ ban đầu và bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường và chịu sự điều tiết của nhà nước bên cạnh đó là các qui luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, doanh nghiệp nào muốn tồn tại và khẳng định vị trí của mình trên thị trường thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải mang lại hiệu quả kinh tế xã hội có nghĩa là thu nhập phải bù đắp đủ chi phí, có doanh lợi và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước được giao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập. Để xác định được chính xác hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần thiết phải hạch toán đầy đủ chính xác các khoản chi phí đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm bên cạnh đó phải hạch toán đầy đủ các khoản thu nhập.Việc hạch toán đúng, đầy đủ và chính xác chi phí sản xuất có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lí chi phí giá thành, tổ chức kiểm tra tính hợp lí, hợp pháp của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp nói chung, ở từng bộ phận, đối tượng nói riêng, góp phần quản lí tài sản vật tư lao động, tiền vốn tiết kiệm có hiệu quả. Mặt khác, nó còn tạo điều kiện hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, đó là một trong những điều kiện quan trọng để thị trường chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp có điều kiện cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp khác.
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mặc dù thuộc về kế toán quản trị kinh doanh, chủ yếu cung cấp thông tin phục vụ cho công tác quản lí ở doanh nghiệp song nó cũng có ý nghĩa rất quan trọng và chi phối đến chất lượng công tác kế toán khác cũng như chất lượng và hiệu quả công tác quản lí kinh tế, tài chính tình hình thực hiện chính sách chế độ kinh tế tài chính của doanh nghiệp.
Từ những vấn đề trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đầy đủ, hợp lí, chính xác phấn đấu không ngừng hạ thấp giá thành sản phẩm là yêu cầu cần thiết, là khâu trọng tâm trong toàn bộ công tác kế toán tại các doanh nghiệp sản xuất hiện nay.
IV. ĐỐI TƯỢNG KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT - ĐỐI TƯỢNG TÍNH GIÁ THÀNH
1. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất:
Đối tượng kế toán chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm soát chi phí và yêu cầu tính giá thành sản phẩm. Giới hạn để kế toán tập hợp chi phí sản xuất có thể là nơi phát sinh chi phí như: phân xưởng sản xuất, đội sản xuất... hoặc nơi gánh chịu chi phí như sản phẩm,công trình, hạng mục công trình, đơn đặt hàng...
Việc lựa chọn đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất ở từng doanh nghiệp có sự khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào đặc điểm tình hình tổ chức kinh doanh, yêu cầu và trình độ quản lí cũng như qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
Thực chất của việc xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất là xác định hoạt động hay phạm vi của chi phí phát sinh làm cơ sở cho việc tập hợp chi phí sản xuất.
Việc xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên rất quan trọng trong toàn bộ tổ chức công tác kế toán quản trị chi phí sản xuất. Để từ đó dựa vào và cân nhắc hàng loạt các nhân tố như:
- Đặc điểm và công dụng của chi phí trong quá trình sản xuất
Đặc điểm cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp
Quy trình công nghệ sản xuất, chế tạo sản phẩm
….
Xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất một cách kịp thời chính xác theo đúng đối tương tập hợp chi phí sản xuất đã xác định là cơ sở, tiền đề quan trọng để kiểm tra, kiểm soát quá trình chi phí, tăng cường trách nhiệm vật chất đối với các bộ phận, đồng thời cung cấp số liệu cần thiết cho việc tính các chỉ tiêu giá thành theo yêu cầu quản trị của doanh nghiệp.
2. Đối tượng tính giá thành:
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp xản xuất ra cần phải tính được tổng giá thành và giá thành đơn vị.
Khi tính giá thành sản phẩm, trước hết phải xác định được đối tượng tính giá thành. Bộ phận kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, các loại sản phẩm và lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất, tính chất sản xuất và cung c