Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải tự bù đắp chi phí và sản xuất kinh doanh có lãi thì mới tồn tại và phát triển vững được. Doanh nghiệp công nghiệp, với tư cách là một tế bào, là nơi tạo ra của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết đời sống cho người lao động, vừa tạo tích luỹ cho cơ sở và nguồn tập trung cho nhà nước.
Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp công nghiệp là phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã . Để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của xã hội và góp phần cơ sở vật chất xã hội ngày càng vững chắc, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
Để điều hành và quản lý được toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất, các nhà quản lý phải nắm bắt được kịp thời, chính xác các thông tin kinh tế bao gồm: “Chi phí đầu vào” và “ kết quả đầu ra” đồng thời giám sát chặt chẽ việc sử dụng lao động, hạn chế đến mức tối đa sự ứ đọng vật tư, sản phẩm, hàng hoá, gây lãng phí các yếu tố sản xuất và làm chậm tốc độ luân chuyển vốn lưu động, bên cạnh đó phải xây dựng được phương hướng tối ưu nhằm cung cấp, sử dụng và khai thác mọi khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có đầy đủ ba yếu tố cơ bản: lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất nếu thiếu vật liệu thì doanh nghiệp không thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
72 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tô chức hạch toán vật liệu tại Công ty Hoá Chất Mỏ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải tự bù đắp chi phí và sản xuất kinh doanh có lãi thì mới tồn tại và phát triển vững được. Doanh nghiệp công nghiệp, với tư cách là một tế bào, là nơi tạo ra của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết đời sống cho người lao động, vừa tạo tích luỹ cho cơ sở và nguồn tập trung cho nhà nước.
Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp công nghiệp là phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã ... Để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của xã hội và góp phần cơ sở vật chất xã hội ngày càng vững chắc, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
Để điều hành và quản lý được toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất, các nhà quản lý phải nắm bắt được kịp thời, chính xác các thông tin kinh tế bao gồm: “Chi phí đầu vào” và “ kết quả đầu ra” đồng thời giám sát chặt chẽ việc sử dụng lao động, hạn chế đến mức tối đa sự ứ đọng vật tư, sản phẩm, hàng hoá, gây lãng phí các yếu tố sản xuất và làm chậm tốc độ luân chuyển vốn lưu động, bên cạnh đó phải xây dựng được phương hướng tối ưu nhằm cung cấp, sử dụng và khai thác mọi khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có đầy đủ ba yếu tố cơ bản: lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất nếu thiếu vật liệu thì doanh nghiệp không thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mặt khác trong tổng giá thành của toàn bộ sản phẩm, khoản mục vật liệu thường chiếm một tỷ trọng tương đối cao, do đó tiết kiệm khoản mục chi phí vật liệu trong giá thành sẽ là biện pháp chủ yếu để hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, kế toán vật liệu cũng là bộ phận thực hiện chức năng quản lý vật liệu. Kế toán có đầy đủ chính xác hay không, nó có tác dụng rất lớn đến chất lượng công tác quản lý vật liệu của doanh nghiệp. Chúng ta không thể nói quản trị doanh nghiệp tốt nếu thiếu công tác kế toán vật liệu. Vì vậy một trong những vấn đề quan trọng là để tăng cường và cải thiện công tác quản lý vật liệu cần phải cải tiến và hoàn thiện công tác hạch toán kế toán vật liệu.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của công tác kế toán vật liệu, được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo cùng với các anh, chị phòng kế toán của Công ty Hoá Chất Mỏ, Em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “ Tô chức hạch toán vật liệu tại Công ty Hoá Chất Mỏ”.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Những lý luận cơ bản về hạch toán vật liệu.
Phần II: Thực trạng hạch toán vật liệu tại công ty Hoá Chất Mỏ.
Phần III: Phương hướng hoàn thiện hạch toán vật liệu tại công ty Hoá Chất Mỏ.
PHẦN I
NHỨNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HẠCH TOÁN VẬT LIỆU
I. Ý NGHĨA CỦA VẬT LIỆU ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH
Trong doanh nghiệp sản xuất, vật liệu là đối tượng lao động và là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, là cơ sở vật chất cấu thành nên thực thể sản phẩm. Vật liệu chỉ than gia vào một chu kỳ sản xuất nhất định, bị tiêu hao và chuyển một lần toàn bộ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Chi phí về vật liệu chiếm một tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu giá thành sản phẩn và là bộ phận dự trữ quan trọng nhất trong daonh nghiệp. Nó không chỉ làm đầu vào choquá trình sản xuất mà còn là bộ phận của hàng tồn kho, được theo dõi, bảo quản và lập dự phòng khi cần thiết.
Xuất phát từ những đặc điểm trên, vật liệu có vị trí rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó việc tăng cường công tác quản lý, công tác hạch toán vật liệu, đảm bảo cho việc sử dụng tiét kiệm, hiệu quả nhằm hạ thấp chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm. Hơn nữa kiểm soát hiệu quả chi phí và giá thành sản phẩm dịch vụ. Đây là việc không thể thiếu để doanh nghiệp đạt mục đích cuối cùng là tăng lợi nhuận.
II. KHÁI NIỆM, CÁC TIÊU THỨC PHÂN LOẠI VÀ TÍNH GIÁ VẬT LIỆU
1. Khái niệm
Vật liệu là thành phần chính tạo nên thực thể của thành phẩm. Tuỳ theo mức độ tham gia của vật liệu và giá thành được phân chia thành: Vật liệu chính và vật liệu phụ.
2. Các tiêu thức phân loại vật liệu
Trong các doanh nghiệp sản xuất, vật liệi gồm rất nhiều loại, thứ khác nhau với qui cách phẩm chất, công dụng kinh tế, mục đích sử dụng klhác nhau và chúng biến động liên tục hàng ngày. Để quản lý chặt chẽ và tổ cức hạch toán chi tiết đến từng thứ, từng loại vật liệu phục vụ cho nhu cầu hạch toán kế toán doanh nghiệp, cần thiết phải phân loại chúng theo những tiêu thức phù hợp. Trong thực tế hiện nay, vật liệu thường được phân loại theo các tiêu thức sau:
2.1. Vị trí của vật liệu đối với đối tượng sản xuất kinh doanh
2.1.1.Nguyên liệu, vật liệu chính (bao gồm cả nửa thành phẩm mua ngoài) là những loại vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất nó cấu thành nên thực thể chính củn phẩm. Do đó nguyên liệu, vật liệu chính gắn liền với từng doanh nghiệp, cụ thể: Đối với doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu chính là đối tượng lao động cấu thành thực thể sản phẩm như: Bột gôc, muối trắng, Ni tơ rát amôn, phụ gia sản xuất ANFO, thuốc TNT bột... Đối với nửa thành phẩm mua ngoài với mục đích tiếp tục quá trình sản xuất sản phẩm thì cũng được coi là nguyên vật liệu chính.
2.1.2. Vật liệu phụ: Là những loại vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất không cấu thành thực thể chính của sản phẩm. Vật liệu phụ chỉ có tác dụng phụ trong
Quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, được sử dụng kết hợp với vật liệu chính để hoàn thiện và nâng cao tính năng, chất lượng sản phẩm hoặc sử dụng để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường. Nguyên vật liệu phụ gồm: Đồng hồ đo nhiệt độ, ổ trục bơm bằng cao su, bầu lọc nhiên liệu.
2.1.3.Nhiên liệu: Là loại vật liệu khi sử dụng nó có tác dụng cung cấp nhiệt lượng cho quá trình sản xuất như: Dầu Đi ê zen, dầu HD-40, dầu do, xăng... thực chất nhiên liệu cũng là một loại vật liệu nhưng do tính năng lý, hoá học hoàn toàn khác với vật liệu phụ thông thường và có tác dụng cho nền kinh tế quốc dân nên được xếp thành một loại riêng biệt để có chế độ bảo quản và sử dụng thích hợp.
2.1.4.Phụ tùng thay thế: Là những loại vật tư, sản phẩm dùng để thay thế, sửa chữa máy móc, thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải... Một số phụ tùng như: Bơm nhớt 3607, phụ tùng UOAT, phụ tùng xe 3il. Đây là một số phụ tùng phục vụ cho việc sửa chữa được đảm bảo sẵn sàng cho sản xuất.
2.1.5.Phế liệu: Là những vật liệu bị loại ra trong quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị. Nhìn chung phế liệu đã mất hết hoặc mất phần lớn giá trị sử dụng ban đầu của chúng.
2.1.6.Vật liệu khác: Là những thứ vật liệu khác chưa kể đến trong 5 loại vật liệu kể trên.
2.2. Trách nhiệm quản lý vật liệu
Cũng tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý và hạch toán chi tiết cụ thể của từng loại doanh nghiệp mà trong tưngf loại vật liệu nêu trên lại được chi thành từng kho. Mỗi thủ kho quản lý một nhóm vật liệu khác nhau để thuận lợi cho việc theo dõi vật liệu và gắn với trách nhiệm của từng thủ kho.
3. Tính giá vật liệu
Là dùng thước đo tiền tệ để biểu hiện giá trị của vật liệu theo những nguyên tắc nhất định.
Về nguyên tắc, vật liệu phải được đánh giá theo giá thực tế đó là toàn bộ chi phí thực tế doanh nghiệp bỏ ra để có được vật liệu đó. Tuy nhiên một số doanh nghiệp để đươn giản hoá viẹc hạch toán và ghi chép hàng ngày có thể sử dụng gía hạch toán để hạch toán tình hình nhập, xuất vật tư. Song dù đánh giá theo giá hạch toán vẫn phải đảm bảo việc phản ánh tình hình nhập, xuất vật tư trên các tài khoản, sổ kế toán tổng hợp theo giá trị thực tế.
3.1. Phương pháp tính giá vật liệu nhập kho
3.1.1. Tính giá vật liệu nhập kho theo giá thực tế
Trong các doanh nghiệp sản xuất vật liệu thường được nhập từ nhiều nguồn khác nhau mà giá thực tế của chúng trong nhiều trường hợp được xác định cụ thể như sau:
+ Đối với vật liệu mua ngoài:
Giá trị thực tế
Của vật liệu
Mua ngoài
Giá mua ghi
trên hoá đơn
chưa có thuế
Chi phí
Thu mua
phát sinh
Chiết khấu
mua hàng
(Nếu có)
+ Đối với vật liệu thuê ngoài gia công, chế biến
Giá trị T.T của VL thuê ngoài gia công chế biến
Giá trị T.T của
VL xuất thuê gia công chế biến
Chi phí vận
chuyển, bốc dỡ thuê chế biến
Chi phí phải
trả cho người
nhậngia công
+ Đối với vật liệu tự gia công chế biến: Tính theo giá thành sản xuất thực tế.
+Đối với vật liệu nhận góp vốn liên doanh:
Giá thực tế là giá thoả thuận do các bên xác định
Các chi phí tiếp nhận (Nếu có)
+ Đối với phế liệu: Giá trị thực tế là giá ước tính có thể sử dụng được hay giá trị thu hồi tối thiểu.
+Đối với vật liệu được tặng thưởng: Giá thực tế tính theo đơn giá thị trường tương đương cộng với chi phí liên quan đến việc tiếp nhận.
Nói chung phương pháp tính giá vật liệu nhập kho theo giá thực tế được sử dụng phổ biến ở các doanh nghiệp. Giá thực tế của vật liệu được hình thành trên cơ sở các chứng từ hợp lệ chớng minh các khoản chi hợp pháp của doanh nghiệp để tạo ra vật liệu và nó được xác định tuỳ theo từng nguồn nhập. Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, dễ hiểu và thuận tiện cho việc hạch toán.
3.2.Tính giá vật liệu nhập kho theo giá hạch toán
Phương pháp này được áp dụng ở các doanh nghiệp có qui mô lớn, khói lượng, chủng loại vật liệu nhiều, tình hình nhập xuất diễn ra thường xuyên, việc xác định giá thực tế của vật liệu hàng ngày rất khó khăn và ngay cả trong trường hợp có thể xác định được hàng ngày đối với từng lần, từng đợt nhập nhưng quá tốn kém nhiều chi phí, không hiệu quả cho công tác kế toán, có thể sử dụng giá hạch toán để hạch toán tình hình nhập, xuất hàng ngày. Giá hạch toán là loại giá ổ định được sử dụng thống nhất trong doanh nghiệp, trong thời gian dài, có thể là giá kế hoạch của vật liệu.
Như vậy hàng ngày sử dụng giá hạch toán để ghi sổ chi tiết giá trị vật liệu nhập, xuất. Cuối cùng phải điều chỉnh giá hạch toán theo giá thực tế để có số liệu ghi vào các tài khoản, sổ kế toán tổng hợp, các báo cáo kế toán.
Việc điều chỉnh giá hạch toán theo giá thực tế được tiến hành như sau:
- Trước hết xác định hệ số giữa giá trị thực tế và giá hạch toán của vật liệu (H)
H =
Giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ + Giá thực tế vật liệu nhập trong kỳ
Giá hạch toán vật liệu tồn đầu kỳ + Giá hạch toán vật liệu nhập trong kỳ
- Sau đó tính giá thực tế nhập kho, căn cứ vào giá hạch toán nhập kho và hệ số giá.
Giá thực tế nhập kho = giá hạch toán nhập kho x hệ số giá
3.3. Tính giá vật liệu xuất kho
Vật liệu được thu mua thường xuyên từ nhiều nguồn khác nhau do vậy giá thành từng đợt nhập kho không hoàn toàn giống nhau. Vì thế khi xuất kho, kế toán phải tính được giá thực tế xuất kho cho các nhu cầu, đối tượng sử dụng khác nhau, theo phương pháp tính giá xuất kho đã đăng ký áp dụng và phải đảm bảo tính nhất quán trong niên độ kế toán. Tuỳ từng điều kiện của doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các phương pháp tính giá sau:
3.3.1.Phương pháp nhập trước xuất trước
Đối với phương pháp này trước hết phải xác định được đơn giá thực tế nhập kho của từng lần nhập và giả thiêts số vật liệu nào nhập trước thì xuất trước. Sau đó căn cứ vào số lượng xuất kho để tính ra giá thực tế xuất kho theo nguyên tắc: Tính theo đơn giá nhập trước đối với lượng xuất kho thộc lần nhập trước, số còn lại (tổng số xuất kho, số đã xuất thuộc lần nhập trước) được tính theo đơn giá thực tế lần nhập tiếp đó. Như vậy giá thực tế của vật liệu tồn cuối kỳ chính là giá thực tế của số vật liệu nhập kho thuộc các lần sau cùng. Phương pháp này thích hợp với giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.
3.3.2.Phương pháp nhập sau, xuất trước
Phương pháp này cũng giả thiết rằng hàng (vật liệu) nào mua sau cùng sẽ được xuất trước tiên. sau đó căn cứ số lượng xuất kho tính giá thực tế xuất kho theo nguyên tắc: Tính theo đơn giá của lần nhập sau cùng, số còn lại được tính theo đơn giá thực tế của lần nhập trước đó. Như vậy giá trị thực tế của vật liệu tồn kho cuối kỳ lại là giá thực tế vật liệu thuộc các lần nhập trước nhất.
3.3.3. Phương pháp giá trực tiếp (đích danh)
Phương pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý theo dõi vật liệu theo từng lô hàng hay đơn chiếc. Khi xuất kho vật liệu thuộc lô hàng nào thì phải căn cứ vào số lượng xuất kho và đơn giá nhập kho thực tế của lô hàng đó để tính giá thực tế xuất kho.
Nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp này thì việc tính giá trị thực tế của vật liệu xuất kho tương đói sát với giá thị trường, thuận lợi cho công tác tính giá thành sản phẩm. Tuy vậy nếu sử dụng phương pháp này doanh nghiệp phải theo dõi chi tiết theo từng lô hàng, theo từng lần nhập và trên thực tế rất khó khăn mà không phải doanh nghiệp nào cũng làm được.
3.3.4. Phương pháp giá đơn vị bình quân gia quyền (cả kỳ dự trữ)
Theo phương pháp này, giá thực tế vật liệu xuất kho cũng được căn cứ vào số lượng xuất kho trong kỳ và đơn giá thực tế bình quân để tính.
Giá thực tế xuất kho = Số lượng vật liệu xuất kho x đơn giá thực tế bình quân
Đơngiá
thựctế
bình quân
Giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ + Giá thực tế vật liệu nhập trong kỳ
Số lượng vật liệu tồn đầu kỳ + Số lượng vật liệu nhập trong kỳ
Phương pháp này tuy đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao.
3.3.5. Phương pháp giá hạch toán
Hạch toán vật liệu xuất kho theo phương pháp này cũng như hạch toán vật liệu nhập kho. Giá hạch toán có thể lấy theo giá kế hoạch hoặc giá cuói kỳ trước và được quy định thống nhất trong một kỳ hạch toán. Giá hạch toán không có ý nghĩa trong việc thanh toán và hạch toán tổng hợp về nguyên vật liệu. Khi sử dụng giá hạch toán, hàng ngày kế toán ghi sổ về xuất vật liệu theo giá hạch toán.
Giá hạch toán vật liệu xuất = Số lượng vật liệu xuất x Đơn giá hạch toán.
Đến cuối kỳ hạch toán, kế toán tiến hành điều chỉnh giá hạch toán thành giá thực tế theo hai bước sau:
- Xác định hệ số giá theo từngloại vật liệu (H)
H=
Giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ + Giá thực tế vật liệu nhập trong kỳ
Giá hạch toán vật liệu tồn đầu kỳ + Giá hạch toán vật liệu nhập trong kỳ
- Xác định giá thực tế vật liệu xuất trong kỳ:
Giá thực tế vật liệu xuất trong kỳ = Giá hạch toán vật liệu xuất trong kỳ x H.
III. TỔ CHỨC HẠCH TOÁN VẬT LIỆU
1. Hạch toán chi tiết vật liệu
Vật liệu là một trong những đối tượng kế toán và thường có nhiều chủng loại khác nhau, Nếu thiếu một loại nào đó thì có thể gây ra ngừng sản xuất trong doanh nghiệp. Chính vì vậy tổ chức hạch toán chi tiết mọi vật liệu không chỉ về mặt giá trị mà cả hiện vật, không phải theo từng kho mà phải chi tiết theo từng loại, nhóm, thứ... và phải được tiến hành đồng thời cả ở kho và phòng kế toán trên cùng cơ sở chứng từ nhập xuất kho. Vận dụng phương pháp kế toán cho phù hợp nhằm tăng cường công tác quản lý tài sản nói chung, công tác quản lý vật liệu nói riêng.
1.1. Chứng từ sử dụng
Theo chế độ chứng từ kế toán quy định ban hành QĐ 1141/TC/QĐ/CĐ-KT ngày 01.01.1995 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính, các chứng từ về vật liệu bao gồm:
- Phiếu nhập kho (mẫu 01-VT)Phiếu xuất kho (mẫu 02-VT)
- Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ (mẫu 03-VT)
- Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm hàng hoá (mẫu 08-VT)
- Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho (mẫu 02-BH)
- Hoá đơn cước phí vận chuyển (mẫu 03-BH)
Ngoài các chứng từ bắt buộc sử dụng thống nhất theo quy định của nhà nước, các doanh nghiệp có thể sử dụng thêm các chứng từ kế toán hướng dẫn như:
- Phiếu xuất vật tư theo hạn mức (mẫu 04-VT)
- Biên bản kiểm nghiệm vật tư (mẫu 05-VT)
- Phiếu báo vật tư còn lại cuối kỳ (mâuc 07-VT)
Tuỳ thuộc vào đặc điểm tìnhhình cụ thể của từng doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực hoạt động, thành phần kinh tế, tình hình sở hữu khác nhau.
Đối với chứng từ kế toán thống nhất bắt buộc phải lập kịp thời, đầy đủ theo đúng quy định về mẫu biểu, nội dung, phương pháp lập. Người lập chứng từ phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, hợp lý của các chứng từ về các nghiệp vụ kinh tế – tài chính phát sinh.
Mọi chứng từ kế toán vật liệu phải được tổ chức luân chuyển theo trình tự và thời gian hợp lý do kế toán trưởng quy định phục vụ việc phản ánh, ghi chép và tổng hợp số liệu kịp thời của các cán bộ, cá nhân có liên quan.
1.2. Sổ kế toán chi tiết vật liệu
Tuỳ thuộc vào phương pháp ké toán chi tiết áp dụng trong doanh nghiệp mà các sổ (thẻ) kế toán chi tiết sau được sử dụng:
- Sổ (thẻ) kho (mẫu 06-VT)
- Sổ (thẻ) kế toán chi tiết vật liệu
- Sổ đối chiếu luân chuyển.
- Sổ số dư.
Sổ (thẻ) kho được sử dụng để theo dõi số lượng nhập, xuất, tồn của từng thứ vật liệu theo từng kho.
Sổ (thẻ) kế toán chi tiết vật liệu, sổ đối chiếu luân chuyển, sổ số dư vật liệu được sử dụng để hạch toán tình hình nhập, xuất, tồn của vật liệu về mặt giá trị hoặc cả lượng và giá trị tuỳ thuộc và phương pháp kế toán chi tiết áp dụng trong doanh nghiệp.
Các sổ kế toán chi tiết nêu trên, còn có thể mở thêm các bảng kê nhập, bảng kê xuất, bảng kê luỹ kế tổng hợp nhập, xuất, tồn vật liệu, phục vụ cho việc ghi sổ kế toán chi tiết được đơn giản nhanh chóng, kịp thời và có hiệu quả.
1.3. Các phương pháp hạch toán chi tiết vật liệu
Hạch toán chi tiết vật liệu đòi hỏi phải phản ánh cả về giá trị, số lượng, chất lượng của từng thứ vật liệu theo từng kho và từng người phụ trách vật chất.
Trong thực tế công tác kế toán hiện nay ở nước ta nói chung và ở các doanh nghiệp nói riêng đang áp dụng 3 phương pháp hạch toán chi tiết vật liệu sau:
1.3.1. Phương pháp thẻ song song
Theo phương pháp này phản ánh tình hình hiện có và sự biến động vật liệu ở kho phải mở thẻ kho ghi chép về mặt số lượng. Còn ở phòng kế toán phải mở thẻ kế toán chi tiết vật liệu để ghi chép về mặt số lượng và giá trị.
- Tại kho: Hàng ngày căn cứ vào chứng từ nhập kho, xuất kho vật liệu. Thẻ kho dùng thẻ để ghi chép phản ánh tình hình nhập xuất, tồn kho hàng ngày của từng thứ, loại vật tư, loại vật liệu theo chỉ tiêu số lượng.
Thẻ kho được mở cho từng danh điểm vật liệu. Thủ kho thường xuyên đối chiếu số tồn kho ghi trên thẻ kho và số liệu thực tế còn lại kho hàng ngày hoặc định kỳ 2 đến 5 ngày. Nếu có chênh lệch phải báo ngay để giải quyết. Sau khi ghi xong thẻ kho, thủ kho chuyển giao các chứng từ xuất vật liệu cho kế toán vật liệu.
- Tại phòng kế toán: Kế toán sử dụng sổ (thẻ) chi tiết cho từng danh điểm vật liệu tương ứng với thẻ kho. Nội dung của sổ chi tiết vật liệu tương tự như thẻ kho nhưng chỉ khác là nó theo dõi cả về mặt gía trị và hiện vật. Hàng ngày hoặc định kỳ 3 đến 5 ngày, sau khi nhận được các chứng từ ở kho, kế toán phải kiểm tra và hoàn chỉnh chứng từ ghi đơn giá tính thành tiền rồi ghi vào sổ (thẻ) vật liệu có liên quan. Cuối tháng kế toán cộng sổ tính ra số tồn kho nhập xuất của từng thứ vật liệu rồi đối chiếu với thẻ kho. Trên cơ sở đó lập bảng tổng hợp nhập, xuất, tồn kho của vật liệu về mặt giá trị từng loại vật liệu.
Sơ đồ 1: Sơ đồ kế toán vật liệu theo phương pháp thẻ song song:
Ghi chú: Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Ghi đối chiếu, kiểm tra
Phương pháp này có ưu điểm là việc ghi chép sổ sách đơn giản dễ kiểm tra, đối chiếu số liệu, không đòi hỏi trình độ nghiệp vụ cao và quản lý chặt chẽ sự biến động và số liệu của từng thứ vật liệu theo số lượng và giá trị của chúng. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là việc ghi chép còn trùng lặp giữa kho và phòng kế toán, khối lượng công việc ghi chép lớn. Nếu chủng loại vật tư nhiều, việc nhập xuất vật liệu thường xuyên mà doanh nghiệp áp dụng phương pháp thẻ song song thì công việc sẽ cồng kềnh dồn vào cuối tháng làm hạn chế tính kiểm tra kịp thời của kế toán.
Phương pháp thẻ song song áp dụng thích hợp trong các doanh nghiệp có ít chủng loại vật liệu, khối lượng nghiệp vụ (chứng từ) nhập xuất ít không thường xuyên và trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ kế toán còn hạn chế.
1.3.2. Phương pháp sổ đốc chiếu luân chuyển
Phương pháp sổ đốc chiếu luân chuyển được hình thành trên cơ sở cải tiến của một bước phương pháp thẻ song song.
- Tại kho: Thủ kho dùng thẻ kho để ghi chép, phản ánh hàng ngày tình hình nhập, xuất, tồn kho củ