Trong những năm 90 của thế kỷ XX, đầu tư nước ngoài trở thành một xu hướng mạnh đối với các nước phát triển trên thế giới. đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển thì vốn và công nghệ là chìa khoá là điều kiện hàng đầu để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên nhiều quốc gia đã sớm nắm bắt và tận dụng cơ hội này để phát triển.
Đối với Việt Nam trong điều kiện chuyển dịch từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường lại có điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao và để đưa dất nước phát triển nhanh, Đảng ta khẳng định “phát huy cao nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài”
Hải Dương là một thành phố đang trên đà phát triển mạnh của miền Bắc tỉnh đã xác định rõ lợi thế so sánh, xu hướng phát triển kinh tế quốc tế và khẳng định thu hút vốn đầu tư nước ngoài là những giải pháp quan trọng để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và đóng góp vào sự phát triển của cả nước nói chung. Có thể nói sau hơn 10 năm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỉnh Hải Dương đã thu được những kết quả quan trọng.
77 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề tốt nghiệp Đầu tư nước ngoài tại Hải Dương - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm 90 của thế kỷ XX, đầu tư nước ngoài trở thành một xu hướng mạnh đối với các nước phát triển trên thế giới. đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển thì vốn và công nghệ là chìa khoá là điều kiện hàng đầu để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên nhiều quốc gia đã sớm nắm bắt và tận dụng cơ hội này để phát triển.
Đối với Việt Nam trong điều kiện chuyển dịch từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường lại có điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao và để đưa dất nước phát triển nhanh, Đảng ta khẳng định “phát huy cao nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài”
Hải Dương là một thành phố đang trên đà phát triển mạnh của miền Bắc tỉnh đã xác định rõ lợi thế so sánh, xu hướng phát triển kinh tế quốc tế và khẳng định thu hút vốn đầu tư nước ngoài là những giải pháp quan trọng để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và đóng góp vào sự phát triển của cả nước nói chung. Có thể nói sau hơn 10 năm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỉnh Hải Dương đã thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động thu hút sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Hải Dương vẫn chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế của tỉnh, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hiệu quả sử dụng chưa cao. Chính vì vậy, để nhìn lại những thành quả đã đạt được và tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại hải Phòng, em đã lựa chọn đề tài “Đầu tư nước ngoài tại Hải Dương. Thực trạng và giải pháp.”.
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả huy động và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tại tỉnh Hải Dương, vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế- xã hội và trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp đồng bộ nhằm từng bước đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư nước ngoài đối với tỉnh Hải Dương.
Với mục tiêu trên, đề tài được trình bày làm 2 phần:
Chương I: Thực trạng đầu tư nước ngoài tại tỉnh Hải Dương giai đoạn từ năm 2001 đến nay
Chương II: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài tại tỉnh Hải Dương
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một vấn đề tuy đã được đề cập nhiều nhưng cũng khá phức tạp đối với Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng. Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn nên chắc chắn đề tài không tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các cô chú để đề tài được hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Nguyễn Thu Hà và các cô chú, anh chị trong phòng Kinh tế đối ngoại, Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hải Dương đã đóng góp ý kiến, chỉ bảo tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để đề tài của em được hoàn thành.
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI TỉNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
I. Các nhân tố tác động đến thu hút đầu tư nước ngoài ở tỉnh Hải Dương.
1. Nhân tố về mặt lí thuyết
Môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài ở nơi nhận đầu tư. Nó bao gồm các yếu tố: tình hình chính trị, chính sách – pháp luật, vị trí địa lí - điều kiện tự nhiên, trình độ kinh tế, đặc điểm văn hoá xã hội. Các nhóm yếu tố này có thể làm tăng khả năng sinh lãi hoặc rủi ro cho các nhà đầu tư.
1.1 Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ giảm được các chi phí vận chuyển, đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư, cung cấp đước nguồn nguyên liệu đầu vào phong phú với giá rẻ và tiềm năng tiêu thụ lớn. Những yếu tố này không những làm giảm được giá thành sản phẩm mà còn thu hút được các nhà đầu tư tìm kiếm nguyên liệu tự nhiên và thị trường tiêu thụ.
1.2 Tình hình chính trị
Tình hình chính trị ổn định của nơi tiếp nhận đầu tư là cơ sở quan trọng hàng đầu để thực hiện các cam kết bảo đảm an toàn sở hữu tài sản và các khuyến khích đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác sự ổn định chính trị còn là tiền đề cần thiết để ổn định tình hình kinh tế xã hội, nhờ đó giảm được rủi ro cho các nhà đầu tư. Một nước, một vùng không thể thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài nếu tình hình chính trị luôn luôn mất ổn định.
1.3 Chính sách, pháp luật
Các nhà đầu tư nước ngoài rất cần một môi trường pháp lí hợp lí và ổn định của nước chủ nhà. Môi trường này gồm những chính sách, quy định đối với đầu tư nước ngoài và tính hiệu lực của chúng trong thực hiện. Một môi trường pháp lí hấp dẫn đầu tư nước ngoài nếu có các chính sách, quy định hợp lí và tính hiệu lực cao trong thực hiện. Đây là những căn cứ pháp lí quan trọng không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn cho chính các nhà đầu tư trong nước khi tính toán đến làm ăn lâu dài.
1.4 Trình độ phát triển kinh tế
Trình độ phát triển của nển kinh tế là các mức độ phát triển về quản lí kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài mức độ cạnh tranh của thị trường nước chủ nhà. Những nước có trình độ quản lí vĩ mô kém thường dẫn đến tình trạng lạm phát cao, nợ nước ngoài lớn tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, các thủ tục hành chính rườm rà, nạn tham nhũng … Cơ sở hạ tầng cứng bao gồm các yếu tố như sân bay, cảng biển, giao thông, điện lực, viễn thông, còn cơ sở hạ tầng mềm bao gồm chất lượng lao động, dịch vụ công nghệ, hệ thống tài chính. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và dịch vụ sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi và giảm chi phí phát sinh cho các hoạt động đầu tư.
1.5 Đặc điểm văn hoá xã hội
Đặc điểm văn hoá xã hội của nước chủ nhà được coi là hấp dẫn đầu tư nước ngoài nếu có trình độ giáo dục cao và nhiều sự tương đồng về ngôn ngữ, tôn giáo, các phong tục tập quán với các nhà đầu tư nước ngoài. Các đặc điểm này không chỉ giảm được chi phí đào tạo nguồn nhân lực cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoà nhập vào cộng đồng nước sở tại.
2. Các nhân tố của tỉnh Hải Dương
Tỉnh Hải Dương là một tỉnh có tốc độ phát triển cao và nhanh chóng của miền Băc và của cả nước, đóng vị trí quan trọng trong sự tăng trưởng vùng kinh tế Bắc Bộ. Hoà nhịp với công cuộc đổi mới và mở cửa trong cả nước, Hải Dương đã có những lỗ lực không ngừng để cải thiện môi trường đầu tư, khắc huy những lợi thế so sánh vốn có của mình nhằm kích thích nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của thành phố.
Trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, Hải Dương đã đạt được những thành tựu đáng kể nhờ vào những lợi thế so sánh và các chính sách, biện pháp thu hút đầu tư của mình. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài tại Hải Dương trong thời gian qua còn có nhiều khó khăn. Phát huy những thành tựu đã đạt được và khắc phục những khó khăn, hạn chế là chủ trương của tỉnh nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nươc ngoài mà đặc biệt là vốn FDI cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững của tỉnh, xứng đáng với vị trí là một tỉnh có tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh của vùng kinh tế Bắc Bộ và của cả nước.
2.1. Thuận lợi
2.1.1 Điều kiện tự nhiên xã hội
a. Vị trí địa lí
Hải Dương là tỉnh nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, có diện tích tự nhiên 1660,78 km2, toạ độ địa lý ở 20o57' độ vĩ bắc và 106o18' độ kinh đông, gồm một thành phố và 11 huyện, dân số là 1.7 triệu người, chiếm khoảng 2.23% dân số cả nước. Hải Dương tiếp giáp với các tỉnh: Quảng Ninh, Bắc Giang ở phía bắc; Hải Phòng ở phía đông; Thái Bình ở phía nam và Hưng Yên, Bắc Ninh ở phía tây. Tỉnh có 2 tuyến quốc lộ lớn chạy qua: quốc lộ 5A nối Hà Nội với Hải Phòng và quốc lộ 18 nối Bắc Ninh với Quảng Ninh. Nằm trên hành lang Hà Nội - Hải Phòng, Hải Dương có vị trí quan trọng trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Thành phố Hải Dương trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá khoa học kỹ thuật của tỉnh nằm trên trục đường quốc lộ 5 cách Hải Phòng 45 km về phía đông, cách Hà Nội 57 km về phía tây và cách Thành phố Hạ Long 80 km. Phía bắc tỉnh có hơn 20 km quốc lộ 18 chạy qua nối sân bay quốc tế Nội Bài ra cảng Cái Lân tỉnh Quảng Ninh. Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng qua Hải Dương là cầu nối giữa thủ đô và các tỉnh phía bắc ra các cảng biển. Là tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Hải Dương sẽ có cơ hội tham gia vào phân công lao động trên phạm vi toàn vùng và xuất khẩu.
Với vị trí địa lý như trên, tỉnh Hải Dương có điều kiện khá thuận lợi mở mang giao lưu, quan hệ thị trường trong nước và nước ngoài với hướng giao lưu chủ yếu là Đông -Tây và hướng Bắc. Nằm trong trục kinh tế trọng điểm Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh là điều kiện tốt để tiếp thu các tiến bộ khoa học công nghệ, đồng thời các đô thị lớn cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá lớn và đây là nơi thu hút nguồn lao động của tỉnh. Như vậy có thể thấy, Hải Dương có những lợi thế rất lớn trong hoạt động sản xuất nông nghiệp nói riêng và phát triển nền kinh tế chung của toàn tỉnh.
b. Địa hình
Phần lớn địa hình Hải Dương có địa hình bằng phẳng trừ 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn có đồi núi. Hướng địa hình nghiêng và thấp dần từ Tây bắc xuống Đông nam. Hải Dương có vị trí địa lý giáp với khu vực miền núi và đồng bằng đã phân địa hình thành 2 vùng rõ rệt:
- Vùng phía Đông Bắc là đồi núi, đây là rìa của cánh cung Đông Triều, chiếm 10% diện tích lãnh thổ, gồm 3 vùng nhỏ: vùng đồi núi thấp, vùng đồi bát úp lượn sóng và vùng núi đá vôi.
- Vùng đồng bằng nằm trong hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình, chiếm 90% diện tích lãnh thổ. Do tạo thành các nếp lượn sóng nên có thể chia làm 3 tiểu vùng:
+ Tiểu vùng có địa hình tương đối cao từ phía bắc huyện Bình Giang, Cẩm Giàng, nam Chí Linh, Nam Sách, Gia Lộc và phần Tây Bắc Tứ Kỳ.
+ Tiểu vùng có địa hình trung bình: Gồm phần nam huyện Ninh Giang, huyện Thanh Miện.
+ Tiểu vùng thấp gồm các huyện Tứ Kỳ, phần nam Kinh Môn, đông Nam Sách, và Thanh Hà, có địa hình dạng vàn thấp và trũng.
c. Khí hậu
Tỉnh Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Lượng mưa trung bình hàng năm 1.300 - 1.700 mm. Nhiệt độ trung bình 23,30C; số giờ nắng trong năm 1.524 giờ; độ ẩm tương đối trung bình 85 - 87%. Khí hậu thời tiết đặc biệt thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm cây lương thực, thực phẩm và cây ăn quả đặc biệt là sản xuất cây rau mầu vụ đông và các ngành khác. Dựa vào nhiệt độ bình quân dưới 16oC và lượng mưa bình quân nhỏ hơn 1500 mm, khí hậu Hải Dương có thể chia làm 2 vùng:
+ Vùng khí hậu bán sơn địa: Gồm huyện Chí Linh và các xã vùng đồi huyện Kinh Môn, có nhiệt độ thấp hơn các huyện khác, năm rét đậm thường có sương muối, tính chất hạn rõ ràng hơn các huyện khác.
+ Vùng khí hậu đồng bằng: Gồm các huyện còn lại của tỉnh, có nền nhiệt lượng cao, mưa phùn đông xuân nhiều hơn.
Khí hậu của tỉnh Hải Dương không khắc nghiệt, ổn định, ít xảy ra thiên tai như hạn hán, bão lụt, … rất thuận lợi cho đời sống và cho sản xuất. Đây là một trong những điều kiện rất quan trọng tạo được tâm lí yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Hải Dương vì nó cho thấy mức độ rủi ro do các yếu tố thiên nhiên khi đầu tư vào Hải Dương gần như không có. Có thể nói, điều kiện về khí hậu chính là một lợi thế của tỉnh Hải Dương trong thu hút đầu tư nước ngoài.
d. Thuỷ văn và nguồn nước
Hải Dương là tỉnh có hệ thống sông ngòi dày đặc với hơn 500 km sông lớn và trên 2.000 km sông nhỏ cùng với hàng ngàn ao hồ lớn nhỏ. Mạng lưới sông chính gồm: Sông Thái Bình có 3 nhánh là sông Kinh Thầy, sông Gùa và sông Mía. Các sông này có đặc điểm là lòng sông rộng, độ dốc nhỏ và uốn lượn, đáy sông thấp hơn nhiều so với mực nước biển; Sông Luộc (là một nhánh của sông Hồng) có chiều rộng trung bình từ 150-250m, sâu từ 4-6m chạy dọc danh giới phía nam của tỉnh.
e. Tài nguyên thiên nhiên
- Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản của tỉnh Hải Dương không đa dạng về chủng loại, nhưng có một số loại trữ lượng lớn, chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp; đặc biệt là công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Đá vôi ở huyện Kinh Môn, trữ lượng 200 triệu tấn, chất lượng tốt, CaCO3 đạt 90 – 97% cung cấp đủ nguyên liệu cho sản xuất sứ. Xi măng sản lượng 4 – 5 triệu tấn. Cao lanh ở Kinh Môn, Chí Linh trữ lượng 40 vạn tấn, tỷ lệ Fe2O3: 0,8 – 1,7 %, Al2O3 17 – 19% cung cấp đủ nguyên liệu cho sản xuất sứ trong tỉnh và một số tỉnh khác. Sét chịu lửa ở huyện Chí Linh, trữ lượng 8 triệu tấn, chất lượng tốt, tỷ lệ Al2O3 từ 23,5 – 28%, Fe2O3 từ 1,2 – 1,9 % cung cấp nguyên liệu sản xuất gạch chịu lửa trong tỉnh và một số tỉnh khác. Bôxít ở huyện Kinh Môn, trữ lượng 200.000 tấn, hàm lượng Al2O3 từ 46,9 – 52,4%, Fe2O3 từ 21 – 26,6%, SiO2 từ 6,4 – 8,9%.
Tài nguyên khoáng sản phong phú sẽ làm giảm chi phí đầu vào, chi phí vận chuyển, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận, tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài.
- Tài nguyên đất
Tỉnh Hải Dương có diện tích tự nhiên 1.662 km2 , được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi ở phía Bắc tỉnh, chiếm 11% diện tích tự nhiên, gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn, là vùng đồi núi thấp phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất màu mỡ thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm.
Trên diện tích hành chính 166.222 ha, Hải Dương bố trí sử dụng 63,1% vào sản xuất. Đất canh tác phần lớn là đất phù sa sông Thái Bình, tầng canh tác dày, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến thịt trung bình, độ PH từ 5 – 6,5; chủ động tưới tiêu bằng động lực, thuận lợi cho thâm canh tăng vụ, ngoài sản xuất lúa còn trồng rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày. Một số diện tích đất canh tác ở phía bắc tỉnh tầng đất mỏng, chua, nghèo dinh dưỡng, tưới tiêu tự chảy bằng hồ đập nước, thích hợp với cây lạc, đậu tương…
Nhìn chung, tài nguyên đất của tỉnh Hải Dương có độ phì khá lại có địa hình đa dạng nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng: cây lương thực, cây ăn quả, cây công nghiệp, rừng đa tác dụng với hệ thống canh tác khá đa dạng. Bên cạnh đó còn một số loại đất chiếm tỷ lệ không nhỏ (khoảng 21556 ha, tương đương gần 19%) còn trở ngại cho sản xuất nông nghiệp, cần phải được đầu tư nâng cấp cải tạo.
- Tài nguyên rừng
Là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng nhưng Hải Dương có diện tích rừng ở vùng đồi núi thuộc 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn. Theo số liệu thống kê năm 2003, diện tích rừng tập trung có 13975 ha, trong đó đất có rừng: 9867 ha (rừng tự nhiên: 3103 ha, rừng trồng: 6764 ha). Rừng tự nhiên nghèo cả về số lượng lẫn chất lượng, hệ động vật rừng hầu như đã giảm sút nghiêm trọng; rừng trồng chủ yếu là cây bạch đàn, keo và một số ít thông, do mới được trồng nên chưa khép tán và chất lượng không cao.
d. Dân số - Lao động
Theo số liệu của Cục Thống kê Hải Dương, dân số của tỉnh năm 1995 là 1608970 người và tính đến tháng 31/12 năm 2003 là 1695568 người, tốc độ tăng bình quân thời kỳ này là 0, 99%/năm. Là tỉnh có quy mô dân số không cao trong nước ta song mật độ dân số trung bình của tỉnh Hải Dương lại rất cao: 1020.95 người/km2, gấp 27 lần bình quân của thế giới và gấp gần 5 lần bình quân cả nước. Có 1441233 người sống ở khu vực nông thôn, chiếm 85% dân số toàn tỉnh, còn lại 254335 người sống ở khu vực thành thị chỉ chiếm 15%. Lao động trong độ tuổi năm 2003 là 970366 người, trong đó hơn 75% là lao động nông nghiệp, tốc độ tăng lao động hàng năm (giai đoạn 1998-2003) khoảng 2,2%/năm. Lao động nông nghiệp có trình độ khá cao: 24% lao động có trình độ văn hoá cấp III, 61% có trình độ văn hoá cấp II và 15% có trình độ cấp I.
Như vậy, nguồn nhân lực Hải Dương khá dồi dào, có văn hoá, có khả năng tiếp thu khoa học kĩ thuật, chịu khó học hỏi tiếp thu kinh nghiệm và bước đầu có ý thức sản xuất hàng hoá…đó là thế mạnh rất lớn. Tuy vậy, đất hẹp, người đông- do hệ quả của việc tăng dân số quá nhanh trong những năm trước và theo đó là tốc độ tăng nhanh về lao động đang là sức ép rất lớn hiện nay và trong nhiều năm tới. Cũng chính vì vậy, mặc dù GDP của Hải Dương đạt khá cao so vơí các tỉnh thành khác (năm 2004 đạt 7340.5 tỷ đồng, chiếm 1.767% cả nước) nhưng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người hàng năm đạt khoảng 4.33 triệu đồng/người chỉ bằng 69% mức bình quân cả nước (6.3 triệu đồng).
Cùng với tình hình chung của cả nước, lao động ở nông thôn còn phổ biến là thuần nông và còn thiếu việc làm, một bộ phận lao động thành thị chưa có việc làm ổn định, thị trường lao động đã hình thành nhưng còn sơ khai. Với thực trạng nguồn lao động như trên, tỉnh cần có các biện pháp đẩy mạnh việc chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống của người dân.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội chủ yếu của Hải Dương.
Chỉ tiêu
Đơn vị
1999
2000
2001
2002
2003
1.Dân số
2.GDP
3.GDP/người
4.Lương thực quy thóc BQ
1000 người
Tỷ đồng
Triệu đồng
Kg/người
1652.9
5979
3.6
511
1664.7
6715
4.03
506
1675.6
6667
3.97
480
1678.4
6925
4.1
518
1695.5
7340.5
4.3
521
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương 2004; NXB TK 2004.
2.1.2 Cơ sở hạ tầng
Hải Dương có hệ thống cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển.
+ Hệ thống giao thông: gồm đường bộ, đường thuỷ, đường sắt; Phân bố hợp lý, giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh .
- Đường bộ: có 4 tuyến đường quốc lộ qua tỉnh dài 99 km, đều là đường cấp I, cho 4 làn xe đi lại; các tuyến đường tỉnh lộ những năm qua được đầu tư nâng cấp tương đối đồng bộ cho nên rất thuận tiện cho việc đi lại của ngươi dân và vận chuyển hàng hoá :
- Đường sắt: Tuyến Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với quốc lộ 5, đáp ứng vận chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh.
Tuyến Hà Nội - Bãi Cháy chạy qua huyện Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng lâm nông thổ sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân, cũng như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh.
- Đường thuỷ: với 400 km đường sông cho tầu, thuyền 500 tấn qua lại dễ dàng. Cảng Cống Câu công suất 300.000 tấn /năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thuỷ một cách thuận lợi.
Hệ thống giao thông trên bảo đảm cho việc giao lưu kinh tế từ Hải Dương đi cả nước và nước ngoài rất thuận lợi.
+ Hệ thống điện: Trên địa bàn tỉnh có Nhà máy nhiệt điện Phả Lại công suất 1040 Mw; hệ thống lưới điện khá hoàn chỉnh, đảm bảo cung cấp điện an toàn và chất lượng ổn định; trên địa bàn tỉnh có 5 trạm biến áp 110/35 kV tổng dung lượng 197 MVA và 11 trạm 35/10 kV, các trạm phân bố đều trên địa bàn tỉnh. Lưới điện 110, 35 kV đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, phục vụ tốt nhu cầu điện cho sản xuất và sinh hoạt.
+ Bưu điện: Mạng lưới bưu chính viễn thông đã phủ sóng di động trên phạm vi toàn tỉnh, 100% thôn, xã đều có điện thoại liên lạc trực tiếp nhanh chóng với cả nước và thế giới.
+ Hệ thống tín dụng ngân hàng : Bao gồm các Chi nhánh Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư phát triển, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Chính sách xã hội, có quan hệ thanh toán trong nước và quốc tế nhanh chóng, thuận lợi. Ngân hàng Cổ phần nông nghiệp và 79 Quỹ tín dụng nhân dân đáp ứng việc khai thác và cung ứng vốn cho hoạt động sản xuất của nhân dân trong tỉnh.
+ Hệ thống thương mại khách sạn: Trên địa bàn tỉnh có 18 doanh nghiệp nhà nước, 12 Hợp tác xã Thương mại, 54 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 20.298 cửa hàng kinh doanh thương mại. Có 1 Trung tâm thương mại tại thành phố Hải Dương, là đầu nối giao dịch và xúc tiến thương mại, thông tin, tiếp thị dự báo thị trường tư vấn môi giới đàm phán ký kết hợp đồng
Hệ thống khách sạn, nhà hàng bao gồm quốc doanh, tư nhân và các tổ chức khác, có đầy đủ tiện nghi sang trọng, lịch sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng tro