Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta có những chuyển biến to lớn, Trước xu thế hội nhập toàn cầu hóa các doanh nghiệp trong nước đang đứng trước một thử thách đó là sự cạnh tranh, Khi mà tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp Thương mại phải xác định cho mình hướng kinh doanh đúng đắn.
Đứng trước thực tiễn đó, các biện pháp quản lý nói chung, kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng nói riêng cần phải thường xuyên bổ sung, đổi mới cho phù hợp với sự vận động và phát triển của thị trường lưu thông hàng hóa. Công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở các doanh nghiệp đã được tổ chức hoàn thiện dần, nhưng mới chỉ đáp ứng được yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Số liệu kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở nhiều doanh nghiệp chưa là cơ sỏ tin cậy cho công tác quản lý của các cấp có liên quan; chưa là cơ sở tin cậy cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
118 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1193 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề tốt nghiệp Hoàn thiện công tác kết toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại Công ty cổ phần thương mại tin học và kỹ thuật công nghệ Tân Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
(((
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta có những chuyển biến to lớn, Trước xu thế hội nhập toàn cầu hóa các doanh nghiệp trong nước đang đứng trước một thử thách đó là sự cạnh tranh, Khi mà tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp Thương mại phải xác định cho mình hướng kinh doanh đúng đắn.
Đứng trước thực tiễn đó, các biện pháp quản lý nói chung, kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng nói riêng cần phải thường xuyên bổ sung, đổi mới cho phù hợp với sự vận động và phát triển của thị trường lưu thông hàng hóa. Công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở các doanh nghiệp đã được tổ chức hoàn thiện dần, nhưng mới chỉ đáp ứng được yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Số liệu kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở nhiều doanh nghiệp chưa là cơ sỏ tin cậy cho công tác quản lý của các cấp có liên quan; chưa là cơ sở tin cậy cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Bởi vậy, cải tiến và hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán nói chung, kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh thương mại nói riêng trong các doanh nghiệp thương mại luôn được đặt ra với mục đích nhằm tổ chức khoa học, hợp lý hơn nữa công tác kế toán này, làm cơ sở cho các thông tin kế toán cung cấp đảm bảo tính đúng đắn và đáng tin cậy. Nhận thức được tầm quan trọng này, đồng thời để đưa kiến thức vào thực tế, nâng cao trình độ hiểu biết bản thân; qua qúa trình thực tập tại Công ty CPTM tin học & kỹ thuật công nghệ Tân Dương, được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn và các cán bộ tại phòng kế toán - tài vụ, em đã thực hiện chuyên đề với đề tài :
“Hoàn thiện công tác kết toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công ty CPTM tin học &kỹ thuật công nghệ Tân Dương”
Nội dung của chuyền đề chia làm ba phần chính:
CHƯƠNG1:Những vấn đề lý luận chung của công tác hạch toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ.
CHƯƠNG 2: Thực trạng công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tại công ty CPTM tin học và kỹ thuật công nghệ Tân Dương.
CHƯƠNG 3: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh ở công ty CPTM tin học và kỹ thuật công nghệ Tân Dương.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1 - Đặc điểm của hoạt động sản xuất, kinh doanhThương mại:
Đặc trưng của các doanh nghiệp Thương mại là hoạt động mua, bán vật tư, hàng hóa phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trung gian và nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của xã hội.
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp Thương mại phải tìm hiểu, bám sát thị trường, nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Từ đó tác động thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, đảm bảo chất lượng hàng hóa và phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống của nhân dân.
Trong nền kinh tế mở thì hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng là hoạt động quan trọng trong ngành Thương mại. Hoạt động của các doanh nghiệp Thương mại chủ yếu là tổ chức thu mua, gia công hàng hóa để xuất khẩu, đồng thời nhập hàng hóa của nước ngoài về nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng.
Mặt khác khi nền kinh tế, xã hội phát triển đến một trình độ nhất định thì hoạt động kinh doanh dịch vụ là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tê xã hội. Hoạt động kinh doanh dịch vụ cũng là hoạt động kinh doanh Thương mại. Hoạt động của các doanh nghiệp thương mại này là hoạt động cung ứng lao vụ, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của sản xuất kinh doanh, nhu cầu về đời sống và sinh hoạt của nhân dân.
Song, trong nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành các hoạt động sản xuất, gia công để tăng thêm hàng hóa cả về chất lượng, số lượng và chủng loại, đảm bảo nhu cầu đa dạng hóa khách hàng.
1.2 - Những vấn đề lý luận chung về bán hàng và xác định kết quả kinh doanh Thương mại:
1.2.1 - Bán hàng và đặc điểm của quá trình bán hàng:
1.2.1.1- Khái niệm: Bán hàng ở các đơn vị kinh doanh là quá trình vận động của vốn kinh doanh từ vốn hàng hoá sang vốn bằng tiền và hình thành kết quả tiêu thụ, là kết quả cuối cùng của hoạt động SXKD ở đơn vị, thông qua quá trình bán hàng, nhu cầu của người tiêu dùng về một giá trị sử dụng nào đó được thoả mãn và giá trị của hàng hoá được thực hiện.
Bán hàng là quá trình thực hiện giá trị sử dụng của hàng hoá thông qua quan hệ trao đổi, đó là quá trình doanh nghiệp cung cấp hàng hoá cho khách hàng và khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho doanh nghiệp
1.2.1.2- Quá trình bán hàng có các đặc điểm sau:
* Có sự thoả thuận, trao đổi giữa người mua và người bán. Người bán đồng ý bán, người mua đồng ý mua, trả tiền và chấp nhận trả tiền.
* Có sự thay đổi quyền sở hữu về hàng hoá: người bán mất quyền sở hữu còn người mua có quyền sở hữu về hàng hoá đã mua bán.
* Trong quá trình tiêu thụ hàng hoá các đơn vị kinh tế cung cấp cho khách hàng một khối lượng hàng hoá nhất định và nhận lại từ khách hàng một khoản tiền gọi là doanh thu tiêu thụ hàng hoá.
1.2.2 - Khái niệm doanh thu bán hàng:
Doanh thu bán hàng là số tiền đã thu hoặc phải thu tính theo giá bán của số sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã được xác định đã bán (đã tiêu thụ)
Trong mọi hình thái xã hội, mọi ngành nghề và loại hình doanh nghiệp các hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải quan tâm đến kết quả của quá trình hoạt động đó. Kết quả hoạt động kinh doanh Thương mại là phần thu nhập còn lại sau khi trừ đi tất cả các chi phí để có thu nhập. Kết quả hoạt động kinh doanh Thương mại còn gọi là lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh.
1.2.3 - Ý nghĩa, vai trò của quá trình bán hàng và XĐKQ bán hàng:
Trong nền kinh tế chỉ huy kế hoạch hóa tập trung, việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp được thực hiện theo kế hoạch chỉ đạo từ trên xuống và không chú trọng đến nhu cầu của khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, tiêu thụ là linh hồn của mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh trong doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp phải tự tìm thị trường và mọi biện pháp để đạt được mục đích tiêu thụ càng nhiều càng tốt.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa là quá trình thực hiện quan hệ trao đổi thông qua các phương tiện thanh toán để thực hiện giá trị của hàng hóa. Thời điểm xác định doanh thu bán hàng tùy thuộc vào từng phương thức bán hàng và phương thức thanh toán tiền bán hàng. Tuy nhiên, điều đó sẽ chi phối việc hạch toán doanh thu và tiền bán hàng, cũng như thanh toán với khách hàng.
Tiêu thụ hàng hóa là điều kiện để tái sản xuất xã hội. Qua tiêu thụ giá trị sản phẩm được thực hiện. Do vậy, tiêu thụ khuyến khích tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất phát triển để đạt được sự thích ứng giữa cung và cầu. Thông qua thị trường, tiêu thụ góp phần điều hòa giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa hàng hóa và tiêu thụ trong lưu thông, giữa nhu cầu và khả năng thanh toán... Đồng thời, đó cũng là điều kiện để đảm bảo sự phát triển cân đối trong từng ngành, từng vùng cũng như trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Bên cạnh đó, tiêu thụ tốt đảm bảo thu hồi được vốn nhanh, tăng tốc độ quay vòng của đồng vốn, tiết kiệm vốn lưu động và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường. Về luân chuyển vốn, tiêu thụ là quá trình chuyển hóa hình thức giá trị của vốn đầu tư, từ hình thức hàng hóa thông thường sang hình thức hàng hóa tiền tệ. Đây là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự tồn tại, phát triển hay phá sản của doanh nghiệp. Tiêu thụ cũng là cơ sở của doanh thu và lợi nhuận, tạo ra lợi nhuận để bù đắp chi phí, đồng thời góp phần bảo toàn và phát triển nguồn vốn kinh doanh.
1.2.4 - Mối quan hệ giữa bán hàng và XĐKQ bán hàng:
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh Thương mại bán hàng và xác định kết quả kinh doanh tuy là khâu cuối cùng nhưng lại đóng vai trò trọng yếu, tác động đến sự thành bại của doanh nghiệp. Do đó, chúng thực sự có sự liên kết và có mối quan hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng đến nhau. Thật vậy, tiêu thụ hàng hóa là cơ sở để xác định kết quả bán hàng. Việc XĐKQ bán hàng đạt được lại chính là cơ sở để xác định chính xác hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ; xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước: như là phần thuế doanh thu phải nộp; xác định được chi phí phục vụ cho sản xuất, kinh doanh sẽ bỏ ra và số lợi nhuận thu về.
Mặt khác, kết quả bán hàng sau mỗi kỳ hoạt động có tác động trực tiếp tới doanh nghiệp. Bởi lẽ, bản chất của koạt động kinh doanh Thương mại là buôn bán vật tư, hàng hóa phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của xã hội. Như vậy, bán hàng và kết quả bán hàng có mối liên hệ mật thiết không thể tách rời. Việc bán hàng hóa như thế nào là cơ sở xác định kết quả bán hàng. Ngược lại, kết quả bán hàng là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp đưa ra quyết định sẽ tiếp tục tiêu thụ mặt hàng nào, giảm việc kinh doanh mặt hàng nào không còn thích ứng với nhu cầu của thị trường và giá cả ra sao... Qua đây, ta có thể khẳng định kết quả bán hàng là mục tiêu hàng đầu của đơn vị hướng tới, còn bán hàng chính là “ phương tiện trực tiếp” để thực hiện.
1.3 - Các phương thức bán hàng và thủ tục chứng từ ban đầu:
Trong doanh nghiệp Thương mại, bán hàng bao gồm hai khâu: bán buôn và bán lẻ. Do vậy, các phương thức bán hàng cũng được chia thành các phương thức bán buôn và các phương thức bán lẻ riêng biệt.
1.3.1 - Các phương thức bán buôn:
Bán buôn là việc tiêu thụ hàng hóa cho các đơn vị Thương nghiệp để tiếp tục chuyển bán hoặc bán các loại nguyên liệu, vật liệu cho các đơn vị sản xuất; Bên cạnh đó, còn cung cấp hàng hóa cho các tổ chức xã hội khác để thỏa mãn nhu cầu kinh tế.
1.3.1.1- Bán buôn qua kho:
Đây là phương thức bán buôn mà hàng hóa xuất từ kho của doanh nghiệp để bán cho người mua. Qua phương thức này, hàng hóa được tập trung ở kho của doanh nghiệp trước khi tiêu thụ. Phương thức bán buôn qua kho giúp cho doanh nghiệp tập trung được nguồn hàng, chủ động ký kết hợp đồng kinh tế với người mua; nhưng bên cạnh đó cũng có những bất cập như: chi phí kinh doanh cao hơn, đặc biệt là khâu dự trữ hàng hóa và làm chậm tốc độ lưu chuyển hàng hóa cũng như vòng luân chuyển vốn kinh doanh. Đối với phương thức bán buôn qua kho thường sử dụng 2 hình thức bán hàng sau đây:
1.3.1.1.1-Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng:
Theo hình thức này, doanh nghiệp Thương mại căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký với người mua để gửi hàng cho người mua bằng phương tiện vận chuyển tự có hoặc thuê ngoài. Trong trường hợp này, hàng hóa gửi đi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Chi phí vận chuyển do doanh nghiêp chịu hoặc bên mua phải trả, tùy thuộc vào điều kiện quy định trong hợp đồng hai bên đã thỏa thuận, ký kết.
Chứng từ bán hàng trong trường hợp này là hóa đơn hoặc phiếu xuất kho kiêm hóa đơn do doanh nghiệp lập. Thời điểm hàng hóa được coi là bán theo hình thức này là khi bên mua xác nhận đã nhận được hàng hoặc chấp nhận thanh toán; lúc đó hàng hóa mới được chuyển quyền sở hữu từ doanh nghiệp sang người mua.
Trong trường hợp này khi hàng xuất kho chuyển đi, phòng kinh doanh lập “Phiếu xuất kho kiêm phiếu vận chuyển” thành 5 liên: phòng kinh doanh lưu 1 liên; sau khi xuất hàng thủ kho lưu 1 liên; gửi kèm hàng hóa 1 liên; chuyển cho phong kế toán 2 liên. Hàng chưa được tiêu thụ nên được theo dõi ở trạng thái “Hàng gửi đi bán” và vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
Khi giao hàng tại kho của người mua, được người mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho số hàng hóa đó thì lập “Hóa đơn bán hàng” thành 3 liên: giao cho bên mua 1 liên; phòng kinh doanh lưu 1 liên; gửi phòng kế toán 1 liên; Tại thời điểm này hàng hóa mới được coi là tiêu thụ.
1.3.1.1.2- Bán buôn giao hàng trực tiếp tại kho doanh nghiệp:
Theo hình thức này, bên mua căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký sẽ uỷ nhiệm cho cán bộ nghiệp vụ của mình đến nhận hàng tại kho người bán và chịu trách nhiệm áp tải hàng hóa về bằng phương tiện tự có hoặc thuê ngoài. Khi hàng hóa xuất giao cho người mua thì được coi là tiêu thụ. Từ đó, phòng kinh doanh lập “Phiếu xuất kho kiêm hóa đơn bán hàng” thành 4 liên: lưu 1 liên, chuyển cho kho 3 liên; thủ kho xuất hàng xong lưu 1liên chuyển 1 liên cho người mua, còn 1 liên giao cho phòng kế toán.
1.3.1.2- Bán buôn vận chuyển thẳng:
Với phương thức này, hàng hóa bán cho bên mua được giao thẳng từ bên cung cấp không qua kho của doanh nghiệp. Theo phương thức này, doanh nghiệp Thương mại mua hàng của bên cung cấp để bán thẳng cho người mua. Đây là phương thức bán hàng tiết kiệm nhất vì giảm được chi phí kinh doanh, tăng nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa, giảm sự ứ đọng của hàng tồn kho,đảm bảo quay vòng vốn nhanh. Có 2 hình thức bán buôn trong phương thức bán buôn vận chuyển thẳng:
1.3.1.2.1- Bán buôn vận chuyển thẳng trực tiếp:
(Không tham gia thanh toán)
Theo hình thức này, doanh nghiệp Thương mại mua hàng của bên cung cấp giao bán thẳng cho người mua; Doanh nghiệp chỉ đóng vai trò trung gian môi giới trong quan hệ mua bán với người mua; uỷ nhiệm cho người mua đến nhận hàng và thanh toán với người bán theo hợp đồng kinh tế mà doanh nghiệp đã ký với người bán. Tùy theo điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng kinh tế mà doanh nghiệp Thương mại được hưởng một khoản lệ phí do bên mua hoặc bên bán trả (thường là bên bán trả). Khoản lệ phí này chính là doanh thu kinh doanh của doanh nghiệp.Trong trường hợp này, doanh nghiệp Thương mại không lập chứng từ kế toán bán hàng mà chỉ lập “Phiếu thu” về số hoa hồng được hưởng.
1.3.1.2.2-Bán buôn VCT theo hình thức chuyển hàng:
(Có tham gia thanh toán)
Theo hình thức này, doanh nghiệp vừa phải thanh toán tiền mua hàng với người bán, vừa phải thanh toán tiền bán hàng với người mua, nghĩa là đồng thời phát sinh cả hai nghiệp vụ mua hàng và bán hàng. Doanh nghiệp Thương mại có thể vận chuyển hàng đến kho người mua, giao hàng xong được coi là tiêu thụ. Nếu bên mua tự vận chuyển thì thực hiện giao hàng tay ba tại kho của người bán, sau đó háng hóa được coi là xác định tiêu thụ ngay. Chứng từ kế toán bán hàng trong trường hợp này là “ Hóa đơn bán hàng giao thẳng”, đây là “Hóa đơn kiêm phiếu vận chuyển hàng giao thẳng” do doanh nghiệp lập thành 3 liên: gửi cho bên mua 1 liên, chuyển cho phòng kế toán 2 liên để ghi sổ.
1.3.2 - Các phương thức bán lẻ:
Bản lẻ là viêc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và một bộ phận nhu cầu kinh tế tập thể. Hàng hóa bán lẻ vượt ra khỏi lĩnh vực lưu thông, đi sâu vào lĩnh vực tiêu dùng và số lượng qua mỗi lần bán thường sử dụng hai phương thức bán hàng sau đây: Bán lẻ thu tiền tập trung; Bán lẻ thu tiền trực tiếp; Bán hàng tự động; Bán hàng theo phương thức đặt hàng. Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội, các doanh nghiệp đều đưa ra các phương thức bán lẻ khác phù hợp với loại hình kinh doanh buôn bán của doanh nghiệp mình.
1.3.2.1- Bán lẻ thu tiền tập trung:
Trong phương thức này, nghiệp vụ thu tiền và nghiệp vụ giao hàng tách rời nhau nhằm chuyên môn hóa công tác bán hàng. Mỗi quầy hàng hoặc liên quầy hàng đều bố trí một nhân viên thu ngân chuyên thu tiền và viết hóa đơn hoặc tích kê mua hàng cho khách.
Cuối ca hoặc cuối ngày, nhân viên thu ngân kiểm tiền, lập giấy nộp tiền bán hàng (đây chính là doanh thu của cửa hàng trong ngày); Sau đó, nhân viên bán hàng tập hợp hóa đơn và tích kê hàng hóa để tiến hành kiểm kê; Đối chiếu 2 chứng từ này với nhau để làm căn cứ cho kế toán ghi sổ.
1.3.2.2- Bán lẻ thu tiền trực tiếp:
Theo phương thức bán lẻ thu tiền trức tiếp, nhân viên bán hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm vật chất về số hàng đã nhận để bán ở quầy; đồng thời, chịu trách nhiệm quản lý tiền bán hàng trong ngày. Nhân viên bán hàng trực tiếp thực hiện việc thu tiền và giao hàng cho người mua. Cuối ca, cuối ngày nhân viên bán hàng lập giấy nộp tiền bán hàng, đồng thời kiểm kê hàng còn lại ghi vào “Thẻ quầy hàng” và xác định lượng hàng bán ra trong ngày cho từng mặt hàng. Qua phương thức này, nghiệp vụ bán hàng hoàn thành trực diện với người mua và thường không cần lập chứng từ cho từng nghiệp vụ bán lẻ. Tùy thuộc vào yêu cầu quản lý mà cuối ca, cuối ngày hoặc định kỳ ngắn nhân viên bán hàng kiểm kê hàng hóa và dựa vào quan hệ cân đối luân chuyển hàng hóa để xác định lượng hàng tiêu thụ.
Sau đó, nhân viên bán hàng lập “Báo cáo bán hàng” trong ca, ngày hoặc trong kỳ để nộp cho phòng kế toán. Hàng ngày, khi nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ, nhân viên bán hàng phải lập giấy nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ, đây chính là một loại chứng từ; “Báo cáo bán hàng” do nhân viên bán hàng lập.
Để thuận tiện cho việc quản lý hàng hóa bán ra trong ca, hàng ngày hoặc định kỳ nhân viên bán hàng phải mở Thẻ hàng cho từng mặt hàng để ghi chép, tập hợp nghiệp vụ bán hàng theo mẫu sau đây:
Như vậy, đối với phương thức bán lẻ thời điểm được coi là tiêu thụ chính là khi người mua nhận được hàng và trả tiền. Vì bán lẻ là bán trực tiếp với số lượng hàng ít, quá trình bán hàng diễn ra đơn giản, nhanh chóng nên việc XĐ thời điểm hàng hóa được coi là bán không phức tạp như đối với các phương thức bán buôn.
Về hình thức chứng từ, đối với phương thức bán lẻ thường không cần lập chứng từ cho từng nghiệp bán hàng mà mỗi ca, hàng ngày hoặc định kỳ ngắn tiến hành lập chứng từ chung đó là “Báo cáo bán hàng ”, còn tiền bán hàng ghi theo giấy nộp tiền bán hàng; Đối chiếu doanh thu bán hàng trên Báo cáo với số tiền thực nộp sẽ xác định được số tiền thừa (thiếu) trong quá trình tiêu thụ hàng hóa.
1.3.2.3-Bán hàng tự động:
Phương thức bán hàng này được áp dụng đối với một số mặt hàng có thể sử dụng máy bán hàng tự động để thực hiện nghiệp vụ bán hàng. Qua cách thức thực hiện của phương thức bán hàng tự động này cho thấy sự tiện dụng và cũng không kém phần hiệu quả nhằm đưa hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng ở mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên, nó cũng không đòi hỏi phải có một không gian rộng lớn.
1.3.2.4- Bán hàng theo phương thức đặt hàng:
Theo phương thức bán hàng này, khách hàng đặt mua hàng hóa tại quầy hàng; doanh nghiệp cử nhân viên chuyên trách vận chuyển hàng đến địa điểm mà người tiêu dùng yêu cầu. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp phải lập “Báo cáo bán hàng” phản ánh riêng
1.3.2.5-Bán hàng theo phương thức khách hàng tự chọn:
Theo phương thức bán hàng này, các quầy hàng, các gian hàng không có nhân viên bán hàng trực tiếp thu tiền của khách hàng tại từng quầy hàng mà chỉ có các nhân viên chuyên trách làm nhiệm vụ quan sát, bảo vệ gian hàng do mình đảm nhiệm; Đồng thời, có trách nhiệm hướng dẫn, giới thiệu hàng hóa cho khách hàng có nhu cầu mua. Trong hình thức bán hàng này, khách hàng sẽ tự lựa chọn hàng hóa ở quầy hàng, gian hàng; sau đó thanh toán tiền ở bàn thu ngân; nhân viên thu ngân được bố trí ngay ở lối ra.
1.3.2.6- Phương thức bán hàng đại lý:
Giao hàng cho đại lý chính là biến tướng của phương thức bán buôn chuyển hàng và rất phổ biến ở các doanh nghiệp Thương mại hiện nay. Hàng ký gửi được coi là “Hàng gửi đi bán” vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp cho đến khi chính thức tiêu thụ. Để thực hiện được phương thức bán hàng này cần phải có Hợp đồng Bán hàng đại lý ký kết giữa 2 bên: Bên chủ hàng (gọi là bên giao đại lý - gọi tắt là Bên A); Bên bán hàng đại lý (Bên B).
Theo hợp đồng đại lý, bên chủ hàng (bên A) xuất giao sản phẩm, hàng hóa cho bên bán hàng đại lý Số sản phẩm, hàng hóa này vẫn thuộc quyền sở hữu của bên chủ hàng ( bên A), khi bên B báo đã bán được hàng lúc đó mới ghi nhận tiêu thụ cho số sản phẩm, hàng hóa đã giao cho bên B. Bên đại lý khi bán hàng được hưởng hoa hồng đại lý (tiền công bán hàng). Hoa hồng bán đại lý chính là doanh thu của bên B. Bên chủ hàng (bên A) trả tiền hoa hồng cho bên B, đây là chi phí thuê bán hàng thuộc phần chi phí bán hàng.
Bên bán hàng đại lý khi nhận được hàng của chủ hàng về bán, số hàng này vẫn thuộc quyền sở hữu của bên A; bên B chỉ là đối tượng đi bán thuê để nhận lại phần hoa hồng được hưởng ( tiền thù lao bán thuê) ; do đó số sản phẩm, hàng hóa nhận về được ghi nhận là số sản phẩm, hàng hóa bán