Sự ra đời và phát triển của các tổ chức kiểm toán độc lập là xu hướng tất yếu, khách quan có tính quy luận của kinh tế thị trường. Kiểm toán độc lập chính là công cụ quản lý kinh tế, tài chính đắc lực góp phần nâng cao tính hiệu quả của kinh tế thị trường. Hoạt động kiểm toán không chỉ tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp mà còn góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động tài chính kế toán, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các đơn vị được kiểm toán.
Cùng với việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, kiểm toán đã được hình thành và đi vào hoạt động ở Việt Nam. Sự phát triển nhanh chóng của các công ty kiểm toán độc lập trong những năm qua ở nước ta đã chứng minh sự cần thiết của hoạt động này. Một trong những loại hình nghiệp vụ chủ yếu mà Công ty kiểm toán độc lập cung cấp cho khách hàng đó là hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính, đó là sự kiểm tra và trình bầy ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính của đơn vị.
Báo cáo tài chính là tấm gương phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung trên mọi khía cạnh của quá trình kinh doanh. Một tập hợp các thông tin có được từ việc xử lý các giao dịch cuối cùng sẽ được phản ánh thành các bộ phận, các khoản mục trên báo cáo tài chính. Vì vậy, để đạt được mục đích kiểm toán toàn diện các báo cáo tài chính nói chung kiểm toán viên cần phải xem xét, kiểm tra riêng biệt các bộ phận của chúng.
79 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1712 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề tốt nghiệp Kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong kiểm toán tài chính do Công ty Kiểm toán và tư vấn Tài chính Kế toán Sài Gòn thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Sự ra đời và phát triển của các tổ chức kiểm toán độc lập là xu hướng tất yếu, khách quan có tính quy luận của kinh tế thị trường. Kiểm toán độc lập chính là công cụ quản lý kinh tế, tài chính đắc lực góp phần nâng cao tính hiệu quả của kinh tế thị trường. Hoạt động kiểm toán không chỉ tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp mà còn góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động tài chính kế toán, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các đơn vị được kiểm toán.
Cùng với việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, kiểm toán đã được hình thành và đi vào hoạt động ở Việt Nam. Sự phát triển nhanh chóng của các công ty kiểm toán độc lập trong những năm qua ở nước ta đã chứng minh sự cần thiết của hoạt động này. Một trong những loại hình nghiệp vụ chủ yếu mà Công ty kiểm toán độc lập cung cấp cho khách hàng đó là hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính, đó là sự kiểm tra và trình bầy ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính của đơn vị.
Báo cáo tài chính là tấm gương phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung trên mọi khía cạnh của quá trình kinh doanh. Một tập hợp các thông tin có được từ việc xử lý các giao dịch cuối cùng sẽ được phản ánh thành các bộ phận, các khoản mục trên báo cáo tài chính. Vì vậy, để đạt được mục đích kiểm toán toàn diện các báo cáo tài chính nói chung kiểm toán viên cần phải xem xét, kiểm tra riêng biệt các bộ phận của chúng.
Chu trình bán hàng – thu tiền là một bộ phận có liên quan đến rất nhiều chỉ tiêu trọng yếu trên báo cáo tài chính, nó quan hệ mật thiết với báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền là một phần hành quan trọng trong kiểm toán báo cáo tài chính. Nhận thức được điều này trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty Kiểm toán và tư vấn Tài chính Kế toán Sài Gòn , em đã chọn đề tài :
"Kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán và tư vấn Tài chính Kế toán Sài Gòn thực hiện”
Mục đích nghiên cứu của đề tài là vận dụng lý thuyết về kiểm toán,đặc biệt là kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính và việc xem xét thực tiễn công tác kiểm toán cua Công ty, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đua ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty thực hiện.
Nội dung của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có các phần chính sau.
Chương I. Cơ sở lý luận về kiểm toán và kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
Chương II. Thực hiện công tác kiểm toán chu trình bán hàng thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán và tư vấn Tài chính Kế toán Sài Gòn thực hiện.
Chương III. Bài học kinh nghiệm và việc đánh giá thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán và tư vấn Tài chính Kế toán Sài Gòn thực hiện.
Tuy nhiên, kiểm toán là một lĩnh vực còn rất mới mẻ ở Việt Nam cả về lý thuyết lẫn thực tế và do những hạn chế về kinh nghiệm và chuyên môn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô.
Chương I
Cơ sở lý luận về kiểm toán và kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiềntrong kiểm toán báo cáo tài chính
I - Đặc điểm của chu trình bán hàng - thu tiền
Có nhiều cách định nghĩa về kiểm toán khác nhau, nhưng theo cách hiểu chung và bản chất của kiểm toán được định nghĩa “Kiểm toán là quá trình mà theo đó một cá nhân độc lập có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm đạt mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin đó lượng đó với chuẩn mực đã được xây dựng”(1).
Trong quá trình hoạt động kiểm toán có 3 hình thức kiểm toán là kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán BCTC.
“Kiểm toán BCTC là quá trình kiểm tra bày tỏ ý kiến của KTV độc lập rằng báo cáo tài chính được trình bày một cách hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh hoặc những thay đổi của tình hình tài chính theo những nguyên tắc kế toán được chấp nhận”(2).
Và luật pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đã quy định: “Sau khi có xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết định của các đơn vị kinh tế là căn cứ cho việc điều hành, quản lý hoạt động ở đơn vị. Cho các cơ quan quản lý cấp trên và các cơ quan tài chính Nhà nước xét duyệt quyết toán hàng năm của đơn vị. Cho các cơ quan quản lý cấp trên và các cơ quan tài chính Nhà nước xét duyệt quyết toán hàng năm của đơn vị. Cho cơ quan thuế tính toán số thuế và các khoản phải nộp khác của đơn vị. Cho các bên tham gia liên doanh, khách hàng và các tổ chức, cá nhân xử lý mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ với đơn vị trong quá trình kinh doanh.(3)
BCTC là tấm gương phản ánh kết quả tổng hợp của một doanh nghiệp. Quá trình này bao gồm các chu trình nghiệp vụ kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các chu trình này không có điểm bắt đầu hoặc kết thúc ngoại trừ lúc doanh nghiệp bắt đầu hoặc kết thúc hoạt động của mình; Tuy nhiên nếu xét trên khía cạnh tổng quát thì các chu trình này cũng có thể được phân tích một cách tương đối. Cụ thể một công ty bắt đầu hoạt động bằng cách huy động vốn thường dưới dạng tiền mặt (chu trình huy động vốn hoàn trả), tiền đó được dùng để mua nguyên vật liệu, hàng hóa và các dịch vụ đầu vào liên quan đến quá trình sản xuất (chu trình tiền lương vào thanh toán), để thuê mướn lao động cho sản xuất (chu trình tiền lương và nhân sự). Qua quá trình sản xuất, thành phẩm được lưu kho chờ (chu trình hàng tồn kho), sau đó hàng tồn kho được bán và thu tiền (chu trình bán hàng và thu tiền).
Theo trình tự trên thì chu trình huy động vốn có thể được coi một cách tương đối là chu trình cuối cùng hoàn thành một vòng tuần hoàn vốn, tiền nhờ đó được tạo ra một phần dùng để hoàn trả vốn và để lại cho các chu kỳ kinh doanh tiếp sau. Mỗi một chu trình nghiệp vụ kinh doanh đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và là nhân tố cần thiết tạo nên tính liên tục của quá trình kinh doanh. Chu trình trước tạo tiền đề cho chu trình sau, và chu trình sau là căn cứ để đánh giá kết quả của chu trình trước. Vì thế chu trình bán hàng và thu tiền là chu trình cuối cùng không những đánh giá hiệu quả của các chu trình trước mà nó còn đánh giá hiệu quả của toàn bộ quá trình kinh doanh.
Trong kế toán BCTC có hai cách kiểm toán khác nhau đó là kiểm toán theo khoản mục và kiểm toán theo các chu trình nghiệp vụ. Với kiểm toán theo khoản mục thì cách làm đơn giản KTV xem từng số dư của các tài khoản trên báo cáo như một phần riêng tách biệt với nhau. Cách làm này dễ song hiệu quả không cao vì nó dẫn đến sự tách biệt những tài khoản có liên quan chặt chẽ với nhau chẳng hạn như tài khoản hàng tồn kho và giá hàng bán. Có một cách thông dụng và hiệu quả để phân đoạn kiểm toán là chia các nghiệp vụ và số chỉ các tài khoản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong cùng một phần hành. Hay còn được gọi là phương pháp chu trình. Theo phương pháp này một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính thường được tiến hành năm phần hành lớn theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: năm chu trình kiểm toán bctc.
Với chu trình bán hàng và thu tiền, các nghiệp vụ về kinh doanh, doanh thu trả lại, chiết khấu, giảm giá, các khoản thu về tiền, số dư các khoản phải thu và các khoản dự phòng đều là những bộ phận chi tiết. Khi kiểm tra chu trình này, sau những bước khảo sát hệ thống kiểm soát nội bộ, khảo sát nghiệp vụ và đi sâu vào khảo sát chi tiết số dư tài khoản, KTV phải xác định được tài khoản điển hình của chu trình này là những tài khoản nào. Từ đó để có các thủ tục kiểm toán cần thiết để thu thập đầy đủ bằng chứng xác đáng về mọi khía cạnh làm cơ sở kết luận về phần hành bán hàng và thu tiền nói riêng và BCTC nói chung.
2. nội dung kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền.
2.1. Đặc điểm của chu trình bán hàng và thu tiền trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh biểu hiện doanh nghiệp đang tồn tại và hoạt động. Quá trình này bao gồm các công việc nối tiếp và liên tục, lặp đi lặp lại tạo thành những chu kỳ sản xuất. Người ta có thể nhìn nhận quá trình này theo nhiều góc độ khác nhau. Theo cách nhìn nhận của các nhà quản lý trên góc độ tài chính, quá trình này bao gồm chuỗi các nghiệp vụ cơ bản. Các thông tin về mỗi chu trình đều được thu thập, xử lý trên các loại sổ sách giấy tờ (đặc biệt là sổ sách kế toán). Thực chất của việc bán hàng và thu tiền trong quá trình sản xuất kinh doanh là việc thực hiện giá trị sản phẩm, hàng hóa, lao vụ có từ giai đoạn sản xuất trước đó. Để thực hiện giá trị sản phẩm, doanh nghiệp phải chuyển giao hàng hóa, sản phẩm, được khách hàng chấp nhận trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Chu trình này nói chung được bắt đầu bằng một đơn đặt hàng của khách hàng và chấm dứt bằng sự chuyển đổi hàng hóa hay dịch vụ thành các khoản thu tiền mặt hoặc các khoản phải thu.
Công tác tiêu thụ có thể được bắt đầu từ nhu cầu về các loại sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp từ phía khách hàng. Tùy theo các trường hợp cụ thể mà công tác tiêu thụ có thể được thực hiện theo các phương thức khác nhau sau đây: phương thức tiêu thụ trực tiếp, phương thức chuyển giao hàng hóa theo hợp đồng, phương thức tiêu thụ qua đại lý (ký gửi), phương thức bán hàng trả góp…
Như vậy các phương thức tiêu thụ rất phong phú và đa dạng, phụ thuộc và từng trường hợp cụ thể. Mặc dù vậy việc tiêu thụ thành phẩm nhất thiết được gắn với việc thanh toán của người mua, bởi vì chỉ khi nào doanh nghiệp thu nhận đầy đủ tiền hàng thì việc tiêu thụ mới được coi là kết thúc và được ghi nhận đầy đủ trên sổ sách kế toán.
Việc thanh toán của người mua cũng được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau như:
- Thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt.
- Thanh toán bằng phương thức chuyển khoản qua ngân hàng với điều kiện người mua chấp nhận thanh toán.
Qua việc trình bày về một số phương thức bán hàng và thu tiền chủ yếu của doanh nghiệp cho thấy quá trình tiêu thụ bao giờ cũng gồm hai phần việc chính là nghiệp vụ bán hàng và việc thanh toán với khách hàng. Cụ thể trong một doanh nghiệp, các phần việc này được biểu hiện thành những công đoạn cụ thể sau:
+ Xét và xử lý yêu cầu về mua hàng
+ Phê chuẩn phương thức bán hàng và bán chịu
+ Chuyển giao hàng hóa
+ Gửi hóa đơn cho khách và ghi sổ
+ Ghi sổ các khoản thu được bằng tiền mặt
+ Xử lý và ghi sổ doanh thu bị trả lại hoặc các khoản giảm giá, chiết khấu.
+ Xóa sổ các khoản không thu hồi được
+ Dự phòng nợ phải thu khó đòi.
Với các chức năng trên, mỗi bộ phận trong doanh nghiệp sẽ phải đảm nhận từng phần một. Thông qua việc phân chia nhiệm vụ, người quản lí doanh nghiệp có thể nắm bắt được các thông tin về nghiệp vụ bán hàng chính xác như trong thực tế đã phát sinh. Mặt khác để đảm bảo quyền lợi của mỗi bộ phận trong chu trình này cũng như dễ dàng quy kết trách nhiệm cho từng bộ phận nếu có xảy ra sai sót, gắn với các chức năng trên là các giấy tờ, sổ sách, chứng từ minh chứng cho việc thực hiện các chức năng là có thật bao gồm:
- Đơn đặt hàng của khách
- Phiếu tiêu thụ
- Chứng từ vận chuyển
- Hóa đơn thuế giá trị gia tăng
- Sổ nhật ký bán hàng
- Thư báo chuyển tiền
- Sổ nhật ký thu tiền
- Các mẫu phê chuẩn các khoản không thu được
- Sổ chi tiết các khoản phải thu.
- Báo cáo hàng tháng.
Trong thực tế, các loại chứng từ, sổ sách sẽ được gắn liền với từng bộ phận và quy trình luân chuyển của chúng giữa các bộ phận thể hiện như sau:
Sơ đồ 2: quy trình luân chuyển chứng từ trong
chu trình bán hàng và thu tiền.
2.2. Biểu hiện của hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý chu trình bán hàng và thu tiền tại doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh mục tiêu của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu đó chính là tạo ra được nhiều lợi nhuận, mở rộng sản xuất và phát triển doanh nghiệp. Muốn thế nhà quản lý doanh nghiệp phải tự đề ra cho doanh nghiệp mình một phương thức.
Trong môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán giữ một vai trò quan trọng. Nhiệm vụ của hệ thống này nhằm cung cấp thông tin quản lý (bao gồm các thông tin về kinh tế tài chính của đơn vị và các kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh khác) và thực hiện nhiều mặt hoạt động của đơn vị.
Hệ thống này bao gồm:
- Quá trình lập và luân chuyển chứng từ: Trong chu trình bán hàng và thu tiền, hệ thống này thể hiện ở số lượng các loại chứng từ được lập hi có nghiệp vụ bán hàng và thu tiền phát sinh tại doanh nghiệp như: hóa đơn thuế giá trị gia tăng, hợp đồng mua bán hàng hóa, vận đơn, đơn đặt hàng, phiếu xuất kho… và quy trình luân chuyển các chứng từ này tại các phòng ban, bộ phận trong doanh nghiệp.
- Hệ thống sổ kế toán: Hệ thống này dùng để ghi các nghiệp vụ bán hàng và thu tiền và các nghiệp vụ khác có liên quan, phát sinh trong một niên độ kế toán, mà cơ sở của nó là các chứng từ đã được thiết lập trước đó. Hệ thống sổ sách này cũng được giới thiệu tại phần 2.1.
- Hệ thống tài khoản.
+ Tài khoản phải thu khách hàng: Ngoài việc thể hiện số dư đầu và cuối kỳ trên BCTC, trong hệ thống sổ sách kế toán sẽ hiện diện thông tin chi tiết cho từng khách hàng.
+ Tài khoản tiền: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển.
+ Tài khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi.
+ Doanh thu bán hàng.
+ Các khoản chiết khấu, giảm giá, hàng bán bị trả lại.
+ Thuế giá trị gia tăng phải nộp.
Ngoài ra còn một số thông tin liên qua khác được trình bày ngoài BCTC, mà được thể hiện trên hệ thống sổ sách kế toán như các khoản chi phí dự phòng liên quan đến các khoản nợ không thu hồi được, chi phí bán hàng, giá vốn hàng bán, xử lý các khoản nợ không thu hồi được.
Mối liên hệ giữa các tài khoản này được thể hiện qua sơ đồ 3 quản lý sao cho phù hợp và có hiệu quả. Do đó tất cả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị đều phải được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ nhằm cung cấp những thông tin trung thực, từ đó giúp cho nhà quản lý nắm bắt, đưa ra các quyết định xử lý kịp thời. Vì thế điều quan trọng nhất đảm bảo thành công cho quá trình kiểm tra kiểm soát này là xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ phù hợp với đặc điểm và quy mô hoạt động của doanh nghiệp.
Theo định nghĩa của liên đoàn kế toán quốc tế hệ thống kiểm soát nội bộ là hệ thống những chính sách và thủ tục nhằm vào bốn mục tiêu:
- Bảo vệ tài sản đơn vị
- Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin
- Bảo đảm việc thực hiện các quy định pháp lý
- Bảo đảm hiệu quả của hoạt động.
Chu trình bán hàng và thu tiền là một trong các chu trình nghiệp vụ cơ bản mà thông tin cung cấp từ chu trình này đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện việc xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ đạt được các mục tiêu trên cũng bao hàm một phần quan trọng trong quản lý chu trình bán hàng và thu tiền. Biểu hiện của hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý chu trình này được trình bày theo bốn yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ:
( Môi trường kiểm soát: là bao gồm các nhân tố bên trong và bên ngoài đơn vị có tính môi trường tác động đến việc thiết kế và xử lý dữ liệu của các loại hình kiểm soát nội bộ.
Hai nhóm nhân tố thể hiện bên trong và bên ngoài gồm sáu mặt chủ yếu:
- Đặc thù về quản lý
- Cơ cấu tổ chức
- Chính sách cán bộ (chính sách nhân sự)
- Kế hoạch và chiến lược hoạt động để xem xét doanh nghiệp có định hướng phát triển lâu dài.
- Uỷ ban kiểm soát gồm những người trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp.
- Môi trường bên ngoài bao gồm môi trường pháp lý, đường lối phát triển của đất nước và bộ máy quản lý ở tầm vĩ mô.
Sơ đồ 3: quy trình hạch toán kế toán nghiệp vụ tiêu thụ.
Hệ thống báo cáo kế toán: Hệ thống này được lập với mục đích thông tin cho quản lý cấp trên nắm bắt được toàn bộ kết quả của chu trình qua một niên độ kế toán hay qua một thời kỳ nhất định. Cụ thể là các BCTC nộp cho cơ quan thuế, Bộ chủ quản Tổng công ty… hay là các Báo cáo bán hàng, tình hình thanh toán nợ của khách hàng… cung cấp cho Ban quản trị hoặc giám đốc được biết. Hệ thống báo cáo này đã được trình bày ở I.2.1.
( Các thủ tục kiểm soát
Thủ tục kiểm soát là những chính sách và thủ tục cùng với môi trường kiểm soát và hệ thống kế toán mà Ban quản trị thiết lập ra để đạt được các mục đích của họ. Đồng thời khi thiết kế các thủ tục kiểm soát phải đảm bảo ba nguyên tắc cơ bản sau:
- Có phân công phân nhiệm rõ ràng
- Nguyên tắc bất kiêm nhiệm.
- Chế độ uỷ quyền và phê chuẩn.
Đó là tất cả những nhân tố cần thiết để tạo nên một hệ thống kiểm soát nội bộ đầy đủ. Hiểu được những đặc điểm cũng như biểu hiện của hệ thống kiểm soát nội bộ trong chu trình bán hàng và thu tiền không chỉ có ích cho chủ doanh nghiệp mà còn góp phần nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng của kiểm toán chu trình, và đó là lý do chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của những thông tin trên trước khi đi vào thực hành kiểm toán chu trình.
2.3. Các mục tiêu kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền.
Mục đích của kiểm toán Báo cáo tài chính là xác minh và bày tỏ ý kiến về độ tin cậy của các thông tin, về tính tuân thủ các quy tắc. Đối với chu trình bán hàng và thu tiền sau khi đã xác định được phạm vi kiểm toán (là các khoản mục trên báo cáo tài chính) việc làm chính và chủ yếu của KTV là thu thập bằng chứng, lấy đó làm cơ sở để chứng minh cho ý kiến của mình trong báo cáo kiểm toán. Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 500 “KTV phải thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp để đi đến các kết luạn hợp lý mà căn cứ vào đó đưa ra ý kiến của mình”(4) Các bằng chứng kiểm toán thu được có quan hệ chặt chẽ đến các đặc tính của các thông tin trên Báo cáo tài chính nói chung và chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng.
Đối với bất kỳ một cuộc kiểm toán nào, các mục tiêu đặt ra nhằm cung cấp một bố cục để giúp KTV tập hợp đầy đủ bằng chứng cần thiết. Các mục tiêu đặt ra có liên quan chặt chẽ đến việc xác nhận của doanh nghiệp về các tiêu chuẩn của đặc tính thông tin đã trình bày trên BCTC. Thông thường các bước triển khai mục tiêu kiểm toán như sau:
Sơ đồ 4: các bước triển khai mục tiêu kế toán(5)
Thông qua các bước trên cho thấy xác nhận của Ban quản trị về các chu trình nói chung và chu trình bán hàng và thu tiền nói riêng là rất quan trọng để thiết kế nên các mục tiêu kiểm toán.
Do vậy để khẳng định mục đích chung của kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền là đánh giá xem liệu các số dư tài khoản bị ảnh hưởng tới chu kỳ này có được trình bày một cách trung thực phù hợp với các nguyên tắc kế toán được thừa nhận hay không.
Từ mục đích chung của kiểm toán có thể phát triển thành những mục tiêu đặc thù, mục tiêu của kiểm toán được chia làm hai loại:
- Mục tiêu chung khác gồm:
+ Xác minh tính hiệu lực
+ Xác minh tính chọn vẹn
+ Xác minh việc phân loại và trình bày
+ Xác minh nguyên tắc tính giá
+ Xác minh về tính chính xác máy móc.
Mục tiêu đặc thù đối với chu trình kiểm toán bán hàng và thu tiền:
(1) Có căn cứ hợp lý: Cụ thể doanh thu tiền mặt và các khoản phải thu đều phải hiện hữu vào ngày lập BCTC.
(2) Tính đầy đủ: Cụ thể các khoản doanh thu và các khoản phải thu hiện có đã được tính và ghi vào các tài khoản có liên quan.
(3) Quyền sở hữu: Cụ thể doanh nghiệp phải có quyền sở hữu đối với tất cả các khoản doanh thu, thu nhập khác, tiền mặt và các khoản phải thu phát sinh trong kỳ.
(4) Sự đánh giá: Cụ thể giá của hàng bán phải được phê chuẩn đúng đắn.
(5) Sự chính xác của các tài khoản: Cụ thể tích của đơn giá với số lượng hàng bán phải được tính đúng. Và sổ chi tiết phải được cộng dồn chính xác TK 632.
(6) Xác minh chính sách chiết khấu phù hợp: Cụ thể doanh thu và các khoản phải thu phải được giảm trừ khi thực tế phát sinh phù hợp với chính sách chiết khấu.
(7) Sự