Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Từ công cuộc đổi mới này, nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu trên nhiều mặt. Nhữngthành tựu này đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới đó là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Muốn có vốn phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần phải huy động tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước (vốn trong nước là chủ yếu). Để thực hiện được việc này chúng ta cần phải kiện toàn hệ thống ngân hàng, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống này, trong đó phải phát triển mạnh mẽ thanh toán không dùng tiền mặt.
Công tác thanh toán không dùng tiền mặt giữ một vị trí quan trọng và không thể thiếu được trong hoạt động ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt liên quan mật thiết với quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Tổ chức thanh toán nhanh chóng, kịp thời, chính xác, an toàn và thuận tiện sẽ làm cho vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế quay vòng nhanh, đáp ứng về nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, tiết giảm các chi phí cho đơn vị. Từ đó, đối với xã hội thì nó giảm được tiền mặt trong lưu thông, giảm chi phí in tiền, góp phần ổn định tiền tệ, thúc đẩy sản xuất phát triển.
48 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề tốt nghiệp Một số giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Từ công cuộc đổi mới này, nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu trên nhiều mặt. Nhữngthành tựu này đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới đó là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Muốn có vốn phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần phải huy động tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước (vốn trong nước là chủ yếu). Để thực hiện được việc này chúng ta cần phải kiện toàn hệ thống ngân hàng, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống này, trong đó phải phát triển mạnh mẽ thanh toán không dùng tiền mặt.
Công tác thanh toán không dùng tiền mặt giữ một vị trí quan trọng và không thể thiếu được trong hoạt động ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt liên quan mật thiết với quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Tổ chức thanh toán nhanh chóng, kịp thời, chính xác, an toàn và thuận tiện sẽ làm cho vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế quay vòng nhanh, đáp ứng về nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, tiết giảm các chi phí cho đơn vị. Từ đó, đối với xã hội thì nó giảm được tiền mặt trong lưu thông, giảm chi phí in tiền, góp phần ổn định tiền tệ, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Vì vậy, trong hoạt động ngân hàng, đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt là rất cần thiết. Đây là một trong những phương thức huy động và tạo vốn có hiệu quả cao cho đầu tư phát triển, thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình đổi mới công nghệ ngân hàng, góp phần thúc đẩy nhanh sự hội nhập hoạt động ngân hàng nước ta với cộng đồng tài chính tiền tệ trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt còn có những hạn chế, đòi hỏi cần có biện pháp giải quyết kịp thời. Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào công cuộc đổi mới công nghệ ngân hàng, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo và PTNT Thành phố Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Ngoài lời nói đầu, kết luận chuyên đề được chia thành 3 chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường
Chương II: Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo & PTNT thành phố Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo & PTNT thành phố Hà Nội
Do trình độ còn hạn chế và thời gian nghiên cứu có hạn, bài viết không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được ý kiến chỉ bảo của thầy và ban lãnh đạo cùng các đồng chí phòng kế toán Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn thầy TS. Lê Đức Lữ đã hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên để thực tập tốt nghiệp này.
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. SỰ RA ĐỜI KHÁCH QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Sự ra đời và phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt
- Thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức thanh toán tiền, hàng hóa, dịch vụ của khách hàng thông qua vai trò trung gian của ngân hàng bằng cách trích từ tài khoản này chuyển trả vào tài khoản khác theo lệnh của chủ tài khoản.
- Thanh toán không dùng tiền mặt là một bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. Đó là sự đòi hỏi khách quan của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Sản xuất hàng hóa thời ban đầu còn mang nặng tính tự cung tự cấp, việc trao đổi hàng hóa còn bị hạn chế. Khi sản xuất hàng hóa phát triển thì việc trao đổi hàng hóa trở nên thường xuyên và phát triển hơn. Do đó việc trao đổi trực tiếp vật lấy vật không còn thuận tiện và phù hợp nữa. Để thuận tiện cho việc trao đổi người ta chọn một loại hàng hóa có tính phổ biến nhất làm vật ngang giá chung để có thể trao đổi trực tiếp với bất kỳ một hàng hóa nào khác.
- Lúc đầu, mỗi địa phương có một sản phẩm khác nhau làm vật ngang giá chung. Khi nền kinh tế phát triển thì vật ngang giá được lựa chọn phải là những vật mang tính phổ biến, nó phải thỏa mãn nhu cầu trao đổi của trong nước cũng như ngoài nước. Vì vậy hàng hóa là kim loại đã được dùng làm vật ngang giá chung do kim loại có ưu điểm là dễ chia nhỏ và gộp lại, dễ vận chuyển, dễ bảo quản và có giá trị cao.. Nền kinh tế phát triển, thị trường được mở rộng thì vàng, bạc được giữ vai trò làm vật ngang giá chung vì vàng, bạc có nhiều ưu điểm hơn các kim loại khác. Đến cuối thế kỷ 19, các quốc gia đã lựa chọn vàng làm vật ngang giá chung, để đo lường giá trị của các hàng hóa khác. Khi trở thành vật ngang giá chung duy nhất, vàng đã trở thành tiền tệ. Tiền tệ ra đời là do sự phát triển và lưu thông hàng hóa.
- Khi sản xuất hàng hóa phát triển mạnh sử dụng tiền vàng có rất nhiều bất tiện, muốn mua một mặt hàng có giá trị quá nhỏ thì không thể dùng tiền đó được, đồng thời Nhà nước phải dự trữ một khối lượng vàng lớn. Điều này ở những nước kém phát triển không có được. Do vậy tiền giấy đã được ra đời.
- Tiền giấy có giá trị thấp nên khi đóng vai trò là tiền tệ thì Nhà nước không phải tổn thất quá nhiều cho việc sản xuất ra tiền giấy, do tiền giấy dễ chia nhỏ và dễ lưu thông, dễ cất giữ nên sử dụng tiền giấy rất có hiệu quả cho nền kinh tế.
Nhưng sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng về quy mô, phạm vi lẫn tính thường xuyên liên tục thì thanh toán bằng tiền mặt sẽ làm cho khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên rất lớn. Từ đó nảy sinh khó khăn trong quá trình điều hòa lưu thông tiền mặt. Khối lượng tiền mặt tăng lên sẽ gây sức ép về mặt giá cả rất dễ dẫn đến lạm phát. Mặt khác, thanh toán bằng tiền mặt phải chi phí lớn cho việc in ấn, vận chuyển, đóng gói, bảo quản, kiểm đến.. Bên cạnh đó chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ lại cho phép tiền tệ vận động tách dời với sự vận động của hàng hóa, cho nên không nhất thiết phải dùng tiền mặt mà có thể dùng tiền ghi sổ để thay thế cho tiền mặt trong lưu thông các (đồng tiền ghi sổ là toàn bộ số dư trên các tài khoản tiền gửi của các đơn vị, cá nhân trong nền kinh tế mở tại ngân hàng). Ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán giữa các khách hàng.
Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt ra đời gắn liền với việc ghi sổ đồng tiền. Đó là việc trích tiền từ tài khoản của người chi trả sang tài khoản của người thụ hưởng mở tại ngân hàng hoặc là cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng.
Hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ khắc phục được nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt sẽ làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm được chi phí trong các khâu in ấn, kiểm đếm, vận chuyển.. giảm được chi phí lao động xã hội, nâng cao hiệu quả thanh toán trong nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hiện nay ở nước ta tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông còn khá lớn, bất lợi cho ngân hàng thương mại trong huy động tiền gửi thanh toán đồng thời nó cũng gây ra bất lợi trong nền kinh tế. Do đó, việc đẩy mạnh hình thức thanh toán dùng tiền mặt vào quá trình thanh toán thay thế cho tiền mặt trong lưu thông là hết sức cần thiết, vừa đáp ứng được yêu cầu tất yếu khách quan của sản xuất và lưu thông hàng hoá vừa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế hiện đại.
Tổ chức tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt là một yêu cầu đặt ra đối với tất cả các đơn vị, các tổ chức trong toàn xã hội, đặc biệt là ngành Ngân hàng với vai trò là trung tâm thanh toán của nền kinh tế quốc dân.
2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt
Trong nền kinh tế thị trường, thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò rất quan trọng, nó góp phần đẩy mạnh sự giao lưu, tạo điều kiện rút ngắn khả năng quay vòng của vốn, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, từ đó nâng cao tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong chu chuyển tiền tệ sẽ làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm được các chi phí cần thiết phục vụ cho lưu thông tiền mặt, tác động trực tiếp đến thị trường giá cả, kiềm chế lạm phát tiến tới ổn định tiền tệ. Tổ chức tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng làm cho Ngân hàng có thể tập trung được vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để sử dụng có kế hoạch nhằm phục vụ cho quá trình tái sản xuất.
Công tác thanh toán không dùng tiền mặt càng phát triển, càng mở rộng thì nguồn vốn ngân hàng huy động từ số dư trên các tài khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế sẽ tăng lên, tăng nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Đồng thời qua thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng nắm được một số cách chính xác, hợp lý tình hình thiếu vốn của các bên tham gia thanh toán kịp thời cho vay, phát triển vay đúng mục đích và có vật tư, hàng hoá đảm bảo.
Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt góp phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Việc mở rộng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ giảm được khối lượng lớn tiền mặt trong lưu thông và làm tăng khối lượng tiền ghi sổ. Điều đó giúp cho Ngân hàng có thể sử dụng hữu hiệu các công cụ của chính sách tiền tệ. Bởi vì để điều tiết được khối lượng tiền mặt trong lưu thông một cách linh hoạt là rất khó, chỉ cần thay đổi lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc... là có thể làm tăng hoặc giảm một cách nhanh chóng một khối lượng tiền mặt cần thiết trong lưu thông, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Muốn đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì phải đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt từng bước hiện đại hoá hoạt động thanh toán theo chương trình đổi mới công nghệ ngân hàng.
II. NGUYÊN TẮC TRONG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
1. Nguyên tắc về tài khoản thanh toán.
Để tiến hành trích chuyển tài khoản, quy định đầu tiên là các chủ thể thanh toán phải mở tài khoản tại một hay nhiều tổ chức tài chính trung gian, các khách hàng (gồm các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn vị vũ trang, công dân Việt Nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam) được quyền lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, tài khoản phải luôn có đủ số dư để thanh toán kịp thời và đầy đủ cho người thụ hưởng.
Việc mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng và thực hiện thanh toán qua tài khoản được ghi bằng đồng Việt Nam. Trường hợp mở tài khoản và thanh toán bằng ngoại tệ phải thực hiện theo quy chế quản lý ngoại hối của Chính phủ Việt Nam ban hành.
Ngoài ra, trong một số hình thức thanh toán còn đòi hỏi phải có hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng, các chủ thể tham gia thanh toán phải thực hiện đúng theo những điều khoản đã ký trong hợp đồng kinh tế. Hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng là cơ sở pháp lý để giải quyết khi xảy ra tranh chấp trong quá trình thanh toán.
2.Nguyên tắc về chứng từ thanh toán
Tất cả những chứng từ thanh toán của các chủ thể thanh toán đều phải lập trên mẫu in sẵn do ngân hàng in và nhượng bán. Những chứng từ đó phải được lập đủ liên, viết rõ ràng, không được tẩy xóa và phải nộp vào ngân hàng theo đúng quy định. Các ngân hàng có quyền từ chối việc thanh toán hoặc không tiếp nhận các giấy tờ thanh toán trong trường hợp chủ thể thanh toán vi phạm một trong các quy định của chế độ thanh toán hiện hành.
3.Nguyên tắc trách nhiệm của ngân hàng
- Các ngân hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục thanh toán, giám sát khả năng chi trả của khách hàng; cung cấp đầy đủ và kịp thời các loại giấy tờ thanh toán cần thiết cho khách hàng theo chế độ quy định.
- Các ngân hàng có trách nhiệm thông báo và đối chiếu thường xuyên với các chủ tài khoản về số dư tài khoản tiền gửi.
- Khi nhận được các chứng từ thanh toán của khách hàng gửi đến, các ngân hàng phải kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện thanh toán và có quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ tiền. Ngân hàng phải thanh toán kịp thời chính xác và đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng. Nếu do thiếu sót gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng phải bồi thường vật chất cho bên bị hại và tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo pháp luật.
Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng được thu phí theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Trên đây là một số quy định cơ bản nhằm mục đích vừa đảm bảo cho quá trình thanh toán được thực hiện đúng đắn vừa đảm bảo cho sự kiểm soát bằng đồng tiền của hệ thống Ngân hàng đối với các hoạt động của các chủ thể thanh toán có hiệu quả.
III. CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT QUA NGÂN HÀNG TRONG NỀN KTTT
1. Thanh toán bằng Séc.
- Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy định yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc.
- Séc được dùng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ nộp thuế trả nợ.. hoặc để rút tiền mặt tại các chi nhánh ngân hàng. Tất cả khách hàngmở tài khoản tại ngân hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Trong hình thức thanh toán bằng séc, việc trả tiền do người trả tiền khởi xướng và kết thúc bằng việc ghi số tiền trên tờ séc vào tài khoản của người nhận tiền.
- Séc là công cụ thanh toán ra đời khá sớm và được sử dụng khá phổ biến, được dùng cho cá nhân. Séc thông thường được áp dụng theo nguyên tắc ghi nợ trước, ghi có sau. Theo quy định, đơn vị phát hành séc chỉ được phép phát hành séc trong phạm vi số dư tiền gửi của mình. Phải chấp hành các thủ tục quy định về séc, chịu phạt khi phát hành quá số dư. Thời hạn hiệu lực của séc là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng (gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ). Nếu ngày kết thúc của thời hạn là ngày chủ nhật, ngày lễ thì thời hạn được lùi vào ngày làm việc tiếp theo sau ngày chủ nhật, ngày lễ đó.
1.1. Thanh toán bằng séc chuyển khoản
Séc chuyển khoản do người mua trực tiếp phát hành để trao cho người bán đồng thời nhận số hàng tương ứng với số tiền ghi trên séc chuyển khoản. Séc chuyển khoản thường được áp dụng trong trường hợp hai bên mua bán tín nhiệm lẫn nhau về mặt thanh toán.
Phạm vi áp dụng:
+ Đối với khách hàng mở tài khoản tiền gửi cùng một ngân hàng.
+ Đối với khách hàng mở tài khoản tiền gửi khác ngân hàng (trong cùng hệ thống, khác hệ thống trong cùng địa bàn) có tham gia thanh toán bù trừ.
Nguyên tắc thanh toán: Phải thực hiện ghi nợ tài khoản người phát hành trước, ghi có tài khoản người thụ hưởng sau.
- Séc chuyển khoản được người phát hành séc giao trực tiếp séc cho người thụ hưởng, tuy nhiên hạn chế bộc lộ rõ nhất là phạm vi thanh toán rất hạn hẹp, séc chuyển khoản chỉ dùng thanh toán trên địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ, quy trình luân chuyển séc phức tạp, séc vẫn ghi nợ trước.
1.2. Thanh toán bằng séc bảo chi
Séc bảo chi là hình thức thanh toán trước khi người mua trao séc cho người bán thì phải đến ngân hàng để làm thủ tục bảo chi bằng cách trích tài khoản tiền gửi của mình để lưu ký vào tài khoản tiền gửi đảm bảo séc bảo chi.
Nguyên tắc hạch toán:
+ Séc bảo chi thanh toán khách ngân hàng, cùng hệ thống được ghi có ngay cho người thụ hưởng.
+ Séc bảo chi thanh toán bù trừ với ngân hàng khác trên địa bàn do giám đốc ngân hàng phục vụ người thụ hưởng quy định việc ghi có ngay cho người thụ hưởng hoặc thực hiện theo quy định của ngân hàng chủ trì thanh toán bù trừ. Nếu không thanh toán ngay ngân hàng phục vụ người thụ hưởng làm thủ tục như thanh toán séc chuyển khoản.
Phạm vi áp dụng:
+ Thanh toán cùng ngân hàng
+ Thanh toán khác ngân hàng cùng hệ thống
+ Thanh toán khác ngân hàng, khác hệ thống trên cùng địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ.
- Séc bảo chi do ngân hàng đảm bảo chi trả hộ nên độ an toàn cao song bên trả tiền bằng séc bảo chi phải lưu ký tiền vào tài khoản tại ngân hàng phục vụ mình do vậy dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn trong thanh toán.
2. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi - chuyển tiền
2.1. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi.
Ủy nhiệm chi là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của ngân hàng phục vụ mình (nơi mở tài khoản tiền gửi) trích tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng.
Phạm vi áp dụng:
+ Ủy nhiệm chi được thanh toán cùng ngân hàng (hai bên mua bán cùng mở tài khoản ở cùng một ngân hàng).
+ Thanh toán bằng ủy nhiệm chi khác ngân hàng nhưng cùng hệ thống.
+ Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi khác ngân hàng, khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ.
Đây là hình thức phổ biến mà khách hàng sử dụng vì thủ tục đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, đảm bảo an oàn trong thanh toán và rất phù hợp trong việc thanh toán qua mạng máy tính hiện nay. Thể thức này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng thanh toán không dùng tiền mặt ở NHNo & PTNT.
2.2. Thanh toán bằng Séc chuyển tiền
Séc chuyển tiền là một hình thức chuyển tiền theo yêu cầu của khách hàng, trong đó người đại diện đứng tên trên tờ séc trực tiếp cầm và chuyển séc.
Thời hạn hiệu lực của séc chuyển tiền là 30 ngày (kể từ ngày phát hành séc đến ngày nộp séc vào ngân hàng thanh toán).
Phạm vi áp dụng: Séc chuyển tiền để chuyển tiền giữa hai chi nhánh ngân hàng trong cùng hệ thống.
Séc chuyển tiền thủ tục gọn nhẹ, đảm bảo an toàn cho bên mua và bên bán, phạm vi áp dụng rộng rãi trong toàn hệ thống NHNo VN được khách hàng rất ưa chuộng.
3. Thanh toán bằng thư tín dụng:
Thư tín dụng là loại văn bản cam kết của người mua có xác nhận của ngân hàng bên mua để uỷ nhiệm cho ngân hàng bên bán thanh toán một số tiền nhất định cho người bán nộp đầy đủ chứng từ thanh toán hợp lệ theo điều kiện và thời hạn của thư tín dụng.
Phạm vi áp dụng: Thư tín dụng thanh toán trong nước được thanh toán ở người mua và người bán ở 2 ngân hàng khác nhau, khác địa bàn cùng hệ thống.
Trường hợp khác hệ thống thì trên địa bàn của người bán phải có chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng người mua và chi nhánh này tham gia thanh toán bù trừ với ngân hàng bên bán.
Điều kiện:
+ Thời gian của thư tín dụng là 3 tháng.
+ Hạn mức tối thiểu là 10 triệu đồng.
+ Một thư tín dụng được mở để thanh toán cho một người bán và thanh toán một lần.
Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng trả tiền cho bên thụ hưởng căn cứ vào hoá đơn, vận đơn hoặc chứng từ giao nhận hàng có chữ ký của đại diện người trả tiền, kèm theo giấy ủy nhiệm của người trả tiền do người thụ hưởng xuất trình phù hợp với các điều khoản quy định thống nhất giữa hai bên đã ghi trong thư tín dụng. Sau khi trả tiền cho người thụ hưởng, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phải báo nợ cho ngân hàng phục vụ người trả tiền để tất toán thư tín dụng.
Thư tín dụng quy trình thanh toán rườm rà, quy định chặt chẽ, nặng nề về khâu an toàn, không phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế và đòi hỏi của khách hàng là vừa an toàn, nhanh chóng, thuận tiện do vậy khách hàng hầu như không sử dụng hình thức thanh toán này.
4.Thanh toán bằng ủy nhiệm thu
Ủy nhiệm thu là giấy ủy nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng gửi vào ngân hàng phục vụ mình nhờ để thu tiền về số lượng hàng hóa đã giao, dịch vụ đã cung ứng.
Uỷ nhiệm thu được áp dụng thanh toán tiền hàng, dịch vụ giữa các chủ thể mở TK trong cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc các chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống hay khác hệ thống. Các chủ thể thanh toán phải thỏa thuận thống nhất dùng hình thức thanh toán ủy nhiệm thu với những điều kiện thanh toán cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng, đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho ngân hàng phục vụ chủ thể thanh toán biết để làm căn cứ thực hiện các ủy nhiệm thu.
Khi nhận được giấy ủy nhiệm thu, trong vòng một ngày làm việc, ngân hàng phục vụ bên trả tiền phải trích tài khoản của bên trả tiền để trả ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán.
Thanh toán ủy nhiệm thu: Trường hợp các chủ thể thanh toá