Trong những năm gần đây nền kinh tế thế giới đã trải qua nhiều biến động mạnh mẽ với sự thay đổi thứ hạng các quốc gia trên bảng xếp hạng các cường quốc trên thế giới. Khu vực Đông Nam Á được đánh giá khá cao với tư cách là một khu vực có nền kinh tế phát triển khá năng động. Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển với một môi trường chính trị ổn định, đặc biệt khi tham gia vào sân chơi chung thế giới thì cơ hội đón nhận đầu tư của Việt Nam càng mở rộng. Khi tốc độ phát triển càng nhanh, sự chuyển động của nền kinh tế càng lớn thì rủi ro các doanh nghiệp phải đối mặt càng cao, để tạo ra môi trường minh bạch, hạn chế rủi ro thì nhu cầu hỗ trợ của dịch vụ kiểm toán - tư vấn ngày càng cần thiết. Trong bối cảnh đó, các công ty kiểm toán tại Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều với cách thức hoạt động ngày càng chuyên nghiệp để làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
Là một trong những công ty kiểm toán nước ngoài đầu tiên có mặt tại Việt Nam và lại là một trong 4 công ty kiểm toán hàng đầu trên thế giới, Công ty TNHH KPMG Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của kiểm toán tại Việt Nam, giúp cho thị trường tài chính Việt Nam ngày càng trở nên minh bạch hơn. Với phương châm “chiến lược toàn cầu, am hiểu địa phương”, luôn nỗ lực cung cấp cho khách hàng các dịch vụ với chất lượng tốt nhất, vị trí và danh tiếng của công ngày càng được khách hàng khẳng định trên thị trường kiểm toán và tư vấn tại Việt Nam.
96 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2137 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tốt nghiệp Tìm hiểu qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền do Công ty TNHH KPMG Việt Nam thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nền kinh tế thế giới đã trải qua nhiều biến động mạnh mẽ với sự thay đổi thứ hạng các quốc gia trên bảng xếp hạng các cường quốc trên thế giới. Khu vực Đông Nam Á được đánh giá khá cao với tư cách là một khu vực có nền kinh tế phát triển khá năng động. Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển với một môi trường chính trị ổn định, đặc biệt khi tham gia vào sân chơi chung thế giới thì cơ hội đón nhận đầu tư của Việt Nam càng mở rộng. Khi tốc độ phát triển càng nhanh, sự chuyển động của nền kinh tế càng lớn thì rủi ro các doanh nghiệp phải đối mặt càng cao, để tạo ra môi trường minh bạch, hạn chế rủi ro thì nhu cầu hỗ trợ của dịch vụ kiểm toán - tư vấn ngày càng cần thiết. Trong bối cảnh đó, các công ty kiểm toán tại Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều với cách thức hoạt động ngày càng chuyên nghiệp để làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
Là một trong những công ty kiểm toán nước ngoài đầu tiên có mặt tại Việt Nam và lại là một trong 4 công ty kiểm toán hàng đầu trên thế giới, Công ty TNHH KPMG Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của kiểm toán tại Việt Nam, giúp cho thị trường tài chính Việt Nam ngày càng trở nên minh bạch hơn. Với phương châm “chiến lược toàn cầu, am hiểu địa phương”, luôn nỗ lực cung cấp cho khách hàng các dịch vụ với chất lượng tốt nhất, vị trí và danh tiếng của công ngày càng được khách hàng khẳng định trên thị trường kiểm toán và tư vấn tại Việt Nam.
Trong khi khách hàng tăng lên cả về số lượng và các lĩnh vực kinh doanh, người sử dụng BCTC tăng lên làm cho rủi ro kiểm toán cao hơn, cạnh tranh trong lĩnh vực kiểm toán cũng tăng cao thì việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động, nâng cao hiệu quả cạnh tranh luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu tại công ty. Trong đó, giải pháp về việc hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro được KPMG đánh giá rất cao, bởi lẽ đây là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định hiệu quả, chất lượng cuộc kiểm toán. Một qui trình tốt sẽ giúp KTV xây dựng được kế hoạch, chương trình kiểm toán hiệu quả, giảm thiểu rủi ro đạt được kết quả tối ưu với mức chi phí cạnh tranh. Đặc biệt là trong kiểm toán chu trình bán hàng-thu tiền, đây là một chu trình rất phức tạp có vị trí quan trọng bởi khoản mục doanh thu là một chỉ tiêu cực kỳ quan trọng trong Báo cáo kết quả kinh doanh. Kết quả của chỉ tiêu này được rất nhiều đối tựong quan tâm và sẽ là một trong các chỉ tiêu ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Chu trình này đòi hỏi phải được thực hiện bởi kiểm toán viên kinh nghiệm, giỏi về chuyên môn.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, là một sinh viên năm cuối chuyên ngành kiểm toán đang trong quá trình thực tập kiểm toán tại công ty TNHH KPMG, đây là khoảng thời gian hữu ích tìm hiểu về thực tế tổ chức kiểm toán tại công ty để trợ giúp cho quá trình làm việc sau này, trong Chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình về công ty em đã tập trung tìm hiểu và hoàn thành đề tài: “Tìm hiểu qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền do Công ty TNHH KPMG Việt Nam thực hiện ” .
Nội dung báo cáo của em gồm 3 phần:
Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu, rủi ro và qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chung và trong kiểm toán chu trình chu trình bán hàng-thu tiền
Phần 2: Thực tế đánh giá và áp dụng qui trình đánh giá rủi ro, trọng yếu trong kiểm toán chu trình bán hàng - thu tiền do công ty KPMG Việt Nam thực hiện
Phần 3: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền tại công ty TNHH KPMG Việt Nam
PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU, RỦI RO VÀ QUI TRÌNH
ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN CHUNG VÀ TRONG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG-THU TIỀN
Cơ sở lý luận của qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro
1.1.1. Khái niệm trọng yếu, rủi ro và các vấn đề có liên quan
1.1.1.1. Khái niệm rủi ro và các vấn đề có liên quan
Nghĩa thuần của rủi ro được xác định trong từ điển Tiếng Việt là “Rủi ro là tính từ chỉ sự không may xảy ra” hoặc “rủi ro là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến”. Như vậy, rủi ro là điều không mong muốn xảy ra và trong các lĩnh vực khác nhau thì rủi ro lại thể hiện ở các góc độ khác nhau.
Rủi ro là một khái niệm rất quan trọng trong lĩnh vực kiểm toán. Để thực hiện kiểm toán thì chắc chắn KTV phải hiểu được những rủi ro có thể xảy ra trong kiểm toán thì mới xây dựng được chương trình kiểm toán với các thủ tục thích hợp để kiểm soát và hạn chế rủi ro xảy ra.
Trong kiểm toán, KTV quen thuộc với rất nhiều khái niệm rủi ro như rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện… , trong số đó một khái niệm chung nhất mà KTV quan tâm chính là rủi ro kiểm toán.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán IAG số 25- “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán” thì rủi ro kiểm toán được định nghĩa: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà KTV có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là các sai sót nghiêm trọng. Ví dụ, KTV xó thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần về một BCTC mà không biết rằng báo cáo này có những sai phạm nghiêm trọng”.
Tham khảo chuẩn mực của thế giới, Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng đã đề cập đến khái niệm rủi ro kiểm toán trong chuẩn mực số 400- “Đánh giá về rủi ro kiểm toán và kiểm soát nội bộ” với nội dung “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra kiến nhận xét không thích hợp khi BCTC được kiểm toán còn có nhiều sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán gồm 3 bộ phận: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”. Có thể khái quát lại, rủi ro kiểm toán là rủi ro KTV đưa ra ý kiến không xác đáng về BCTC.
Để hiểu được rủi ro kiểm toán thì cần đi sâu vào phân tích từng yếu tố cấu thành của rủi ro kiểm toán. Xác định các nhân tố cấu thành rủi ro kiểm toán và mối quan hệ giữa các nhân tố này, văn bản SAS 39 về chọn mẫu kiểm toán và SAS 47 về tính trọng yếu rủi ro đã đưa ra mô hình rủi ro kiểm toán:
DAR= IR x CR x DR
Với DAR: Disired audit risk
IR: Inherent risk – Rủi ro tiềm tàng
CR: Control risk
DR: Detection risk
Sau đó mô hình này đã được rất nhiều văn bản sau đó đề cập đến.
Thứ nhất là, rủi ro tiềm tàng. Rủi ro tiềm tàng là rủi ro BCTC tồn tại các sai phạm trọng yếu mà chưa tính đến tác động của các thủ tục được thiết kế bởi hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) của khách hàng. Theo IAG số 25 – “ Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”: “Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc của một loại ngiệp vụ khác (ở đây giả định là không có các qui chế kiểm soát nội bộ có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong môi trường kinh doanh cũng như trong bản chất của số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ ”.
Trong hệ thống chuẩn mực của Việt Nam cũng đề cập đến khái niệm về rủi ro tiềm tàng như sau: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn vốn có khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”.
Như vậy rủi ro tiềm tàng chính là rủi ro xảy ra do bản chất của hoạt động kinh doanh của khách hàng, tính liêm chính của Ban Giám đốc, tính nhạy cảm với sự tham ô, qui mô của khách hàng, các nghiệp vụ kinh tế thường xuyên, … Đối với loại rủi ro này, KTV không thể thay đổi được mà chỉ có thể tìm hiểu và đánh giá để đảm bảo đã nhận biết được hết.
Thứ hai là , rủi ro kiểm soát. Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG số 25 qui định: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro do xác định, có thể xảy ra với một số dư tài khoản hoặc một loại nghiệp vụ và có thể là sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót của các số dư\, các nghiệp vụ khác mà hệ thống KSNB đã không ngăn chặn hoặc không phát hiện kịp thời. Rủi ro kiểm soát sẽ luôn xuất hiện và khó tránh khỏi vì những hạn chế có tính bản chất của bất cứ hệ thốn KSNB nào”.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 – “Đánh giá rủi ro kiểm soát nội bộ”, mục 05 qui định: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai phạm trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống KSNB không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”.
Như vậy rủi ro kiểm soát xảy ra là do hệ thống KSNB của khách hàng đã không thiết kế đầy đủ các thủ tục kiểm soát hữu hiệu để ngăn chặn rủi ro xảy ra, hoặc hệ thống KSNB được thiết kế là hữu hiệu nhưng việc áp dụng các thủ tục này trong thực tế chưa tốt nên không kiểm soát được sai sót. Một phần khiến cho rủi ro này luôn có khả năng tồn tại là do những hạn chế cố hữu của hệ thống KSNB, các sai phạm xảy ra thì thường rất tinh xảo và luôn thay đổi, trong khi hệ thống KSNB thì cần phải xác định được rủi ro trước rồi thì mới có thể thiết kế thủ tục kiểm soát được. Chính vì vậy mà hệ thống KSNB sẽ có độ trễ nhất định so với sai phạm. Với loại rủi ro này KTV cũng không thể thay đổi được mà chỉ có thể đánh giá để trên cơ sở đó thiết lập các thủ tục kiểm toán cơ bản thích hợp.
Thứ ba là, rủi ro phát hiện. Rủi ro phát hiện là rủi ro KTV thực hiện các thủ tục kiểm toán không thích hợp dẫn đến không phát hiện ra các sai phạm còn tồn tại trên BCTC dẫn đến đưa ra ý kiến không thích hợp về BCTC được kiểm toán.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG số 25 có qui định: “Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà KTV không phát hiện ra các sai sót hiện có trong số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ. Những sai sót này có thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót trong các số dư, các loại nghiệp vụ khác. Mức độ rủi ro có thể phát hiện có quan hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán của KTV ”.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 – “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”, mục 06 ghi: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán không phát hiện được.”
Rủi ro phát hiện có thể được phân chia theo rủi ro do thực hiện thủ tục phân tích không phù hợp, hay rủi ro do thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết không phù hợp; hoặc rủi ro chia theo rủi ro do chọn mẫu không đại diện. Rủi ro phát hiện là rủi ro mà KTV có thể chủ động kiểm soát được dựa trên thiết kế các thủ tục kiểm toán.
Giữa 3 yếu tố rủi ro này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau được thể hiện trong mô hình trình bày ở trên. Trong khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là cố định, KTV chỉ có thể đánh giá chứ không thể thay đổi, thì rủi ro phát hiện là rủi ro KTV cần phải điều chỉnh và kiểm soát để đạt được mức rủi ro kiểm toán mong muốn. Mức rủi ro kiểm toán chấp nhận được là mức rủi ro đã được xác định từ trước, ấn định từ khi lập kế hoạch kiểm toán. Ứng dụng của mô hình trên chính là từ mức rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV sẽ xác định rủi ro phát hiện để đảm bảo rủi ro kiểm toán có thể kiểm soát ở mức mong muốn. Việc xác định như sau:
Rủi ro phát hiện được thực hiện sau khi KTV đã đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Dựa trên đánh giá về hệ thống KSNB của khách hàng , nếu như hệ thống này tốt thì rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức thấp, khi đó DR sẽ cao KTV sẽ giảm các thử nghiệm cơ bản phải thực hiện mà rủi ro phát hiện vẫn ở mức thấp và ngược lại.
1.1.1.2. Khái niệm trọng yếu và các vấn đề có liên quan
Cũng giống như rủi ro, trọng yếu là một yếu tố quan trọng trong kiểm toán. Để hiểu được khái niệm “trọng yếu” trong kiểm toán, trước hết hãy xem “trọng yếu” được định nghĩa trong từ điển Tiếng Việt, theo đó “Trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan trọng thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý nghĩa quan trọng ”. Như vậy, trọng yếu trong Tiếng Việt mang ý nghĩa chỉ sự quan trọng của đối tượng nó đi kèm, trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu mang một ý nghĩa cụ thể riêng.
Trong lĩnh vực kiểm toán kiểm toán nói chung, trọng yếu là một khái niệm hết sức quan trọng cùng với khái niệm rủi ro và bằng chứng kiểm toán đã trở thành nền tảng cho mọi quá trình kiểm toán, đây là thuật ngữ được nhắc đến thường xuyên trong suốt cuộc kiểm toán. Trong bản công bố về chuẩn mực kiểm toán số 47 (SAS 47) đã khẳng định: “Kiểm toán viên nên xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề trọng yếu trong khi lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán cũng như khi đưa ra kết luận kiểm toán”. Chính vì vậy, khái niệm trọng yếu được đề cập ở rất nhiều hệ thống chuẩn mực, tài liệu chuyên ngành trong nước cũng như quốc tế.
Văn bản chỉ đạo kiểm toán Quốc tế số 25 (IAG 25), do Liên đoàn kế toán Quốc tế soạn thảo và công bố, đã đưa ra định nghĩa: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc là sẽ rút ra kết luận sai lầm”.
Chuẩn mực kiểm toán số 320 (ISA 320) về “Tính trọng yếu trọng yếu trong kiểm toán” cũng đưa ra định nghĩa: “Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì thế tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần phải có”.
Dựa vào chuẩn mực quốc tế, hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng đề cập đến khái niệm trọng yếu trong chuẩn mực số 320 (VSA 320) “Tính trọng yếu trong kiểm toán” như sau: “ Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán) trong BCTC. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức độ trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính”. Như vậy, định nghĩa trọng yếu theo hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế và Việt Nam đã chỉ ra sự phụ thuộc của tính trọng yếu vào bản chất của các khoản mục, thông tin và đã phần nào đề cập đến mối quan hệ về mặt lượng giữa tính trọng yếu với độ lớn của thông tin bị bỏ sót hoặc thiếu chính xác.
Như vậy, qua một số định nghĩa trên cho thấy, trọng yếu là một thuật ngữ dùng để thể hiện sự quan trọng của thông tin mà nếu thiếu đi thông tin đó hoặc thiếu chính xác của thông tin đó sẽ dẫn đến sai lầm trong việc đánh giá thông tin và đưa ra quyết định quản lý. Trong kiểm toán BCTC khái niệm trọng yếu gắn liền với việc trình bày trung thực, khách quan thực trạng tài chính của khách thể kiểm toán, nếu các thông tin về thực trạng tài chính không trung thực, khách quan trên các khía cạnh trọng yếu sẽ khiến những người sử dụng BCTC đưa ra các quyết định sai lầm.
Trong các định nghĩa về trọng yếu cũng như trong quá trình kiểm toán, khi nói đến trọng yếu thì người ta thường gắn liền với đó là các sai sót, sai phạm trọng yếu. Sai sót hay sai phạm trọng yếu trong BCTC là việc trình bày thông tin tài chính phản ánh thực trạng tài chính của thực thể kinh tế không đầy đủ, không chính xác dẫn đến những người sử dụng BCTC đưa ra quyết định sai lầm.
Khái niệm trọng yếu bao hàm hai mặt có liên quan đến đối tượng nhận thức: qui mô hay tầm cỡ (mặt lượng) và tính hệ trọng (mặt chất) của sai phạm được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Như vậy khi xem xét đối tượng cần quan tâm tới qui mô và tính chất của đối tượng. Cũng từ đây cho ta một sự phân biệt giữa tính trọng yếu và mức trọng yếu. Thông thường tính trọng yếu được đề cập sẽ gắn liền với sai phạm, khi đánh giá tính trọng yếu của một sai phạm tức là đánh giá sai phạm có trọng yếu không cả về định tính và định lượng. Còn mức trọng yếu là một yếu tố định lượng, đó là một ngưỡng – sai lệch tối đa có thể chấp nhận được mà nếu như qui mô của sai phạm vượt qua ngưỡng đó sẽ khiến người đọc, sử dụng thông tin hiểu sai về tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu được xác định bởi kiểm toán viên (KTV) và nó sẽ thay đổi tùy thuộc vào từng khách hàng cụ thể.
Thứ nhất là, về qui mô
Nhiều kiểm toán viên mong muốn có được một con số tuyệt đối chỉ dẫn cho họ về trọng yếu nhưng điều này là rất khó vì trọng yếu là một khái niệm tương đối nhiều hơn là tuyệt đối.
Qui mô tuyệt đối là một con số tuyệt đối thể hiện mức quan trọng mà không cần cân nhắc thêm bất kỳ một yếu tố nào khác, tuy nhiên, trong thực tế, rất khó ấn định một con số cụ thể về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội dung kiểm toán, đặc biệt là khi có yếu tố tiềm ẩn. Một số tiền cụ thể có thể coi là trọng yếu đối với một công ty có qui mô nhỏ nhưng có thể lại là quá nhỏ đối với một công ty có qui mô lớn. Vì vậy, việc xem xét áp dụng qui mô tương đối sẽ hợp lý hơn. Qui mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh giá với một số gốc.
Ngoài ra, khi xem xét qui mô của trọng yếu, KTV cần chú ý không chỉ qui mô tuyệt đối hay tương đối mà còn phải cân nhắc cả sự ảnh hưởng lũy kế của đối tượng xem xét. Trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 “Gian lận và sai sót” có qui định: “KTV không được cho rằng các gian lận và sai sót xảy ra là đơn lẻ và biệt lập, trừ khi đã xác định rõ ràng”. Đoạn 07 – Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán ”qui định: “KTV cần xem xét khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ nhưng tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC. Ví dụ, một sai sót trong thủ tục hạch toán cuối tháng có thể trở thành một sai sót trọng yếu , tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ tiếp tục tái diễn vào mỗi tháng”
Như vậy, để đưa ra một con số hợp lý về mức trọng yếu KTV cần gắn trọng yếu với từng đối tượng cụ thể, khi đó, qui mô của các khoản mục và nghiệp vụ không chỉ được đánh giá bằng con số tuyệt đối mà phải xem xét trong mối quan hệ với toàn bộ đối tượng kiểm toán và cần chú ý tới các ảnh hưởng lũy kế.
Thứ hai là, về tính chất:
Xác định tính trọng yếu trên phương diện qui mô của khoản mục, nghiệp vụ là cần thiết nhưng chưa đủ, KTV phải xem xét trên cả phương diện bản chất của khoản mục, nghiệp vụ đó. Theo nguyên tắc kiểm toán Quốc tế số 25, mục 7 qui định: “ Kiểm toán viên xem lại cả về mặt định tính và định lượng những sai sót mình quan tâm. Vì xét về định tính, các sai phạm có thể làm nảy sinh các vấn đề liên quan khác. Kiểm toán viên cần đề phòng các sai phạm dù nhỏ nhưng có tính dây chuyền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến báo cáo tài chính. Ví dụ một khoản thanh toán không hợp pháp của một khoản mục tương đối quan trọng có thể coi là một sai lầm nghiêm trọng nếu sai phạm này có tính dây chuyền dẫn đến các sai phạm về công nợ, lỗ, tài sản và doanh thu.
Như vậy, để đánh giá tính trọng yếu có hiệu quả, kiểm toán viên trước hết cần tùy thuộc vào loại hình, qui mô doanh nghiệp, am hiểu đặc điểm của loại hình kinh doanh, các biến động có thể xảy ra. Đồng thời, KTV cần có sự am hiểu tài chính kế toán, các qui định pháp luật với doanh nghiệp và dựa vào kinh nghiệm, xét đoán nghề nghiệp của mình để đưa ra đánh giá xác đáng.
Các khoản mục nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và các khoản mục có sai sót hệ trọng.
Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian lận có thể bao gồm: thứ nhất là, các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp, những nghiệp vụ này thường chứa đựng gian lận vì trong đấu thầu việc lựa chọn người trúng thầu có thể có sự móc nối giữa các bên nhằm thu lợi cho cá nhân. Thứ hai là, các nghiệp vụ thanh lý tài sản có khả năng có sự liên kết giữa người tiến hành thanh lý và người mua tài sản, trong khi tài sản đó vẫn tốt và đang trong quá trình sử dụng nhưng đã được thanh lý v