Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V1, đất nước ta chính thức bươc vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới với nội dung chủ yếu là: Xoá bỏ hoàn toàn cơ chế tập chung quan liêu bao cấp, vốn gây lên sự trì trệ về tư tưởng, hiệu quả sản suất xã hội thấp kém. Tăng trưởng kinh tế thấp, nguy cơ tụt hậu xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đời sống vật chất tinh thần không được cải thiện, chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, mở rộng hợp tác quan hệ với tất cả các nước trên thế giới theo phương châm hai bên cùng có lợi.Vói sự cải cách quan trọng này, nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, nước ta có vị thế cao hơn trên trường quốc tế.
Đặc biệt trong những năm gần đây, đất nước ta đã và đang thực hiện những lộ trình quan trọng để hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, phấn đấu trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế. Sự tham gia vào quá trình này là một tất yếu khách quan, bên cạnh những thác thức không nhỏ,nó cũng đêm lại cho nước ta những lợi ích hết sức to lớn góp phần vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mội trong những qui luật cơ bản của kinh tế thị trường là qui luật cạnh tranh . Thực tế cho thấy ở đâu thiếu cạnh tranh thì ở đó thường trì trệ, bảo thủ và kém phát triển. Bởi vậy mặt tích cực của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, sản suất hàng hoá, chính là nó buộc người sản suất, các doang nghiệp phải thường xuyên động não , tích cực nhạy bén, năng động, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới và tổ chức tiết kiệm , có hiệu quả.
92 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề tốt nghiệp Tổ chức công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp in 15, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V1, đất nước ta chính thức bươc vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới với nội dung chủ yếu là: Xoá bỏ hoàn toàn cơ chế tập chung quan liêu bao cấp, vốn gây lên sự trì trệ về tư tưởng, hiệu quả sản suất xã hội thấp kém. Tăng trưởng kinh tế thấp, nguy cơ tụt hậu xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đời sống vật chất tinh thần không được cải thiện, chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, mở rộng hợp tác quan hệ với tất cả các nước trên thế giới theo phương châm hai bên cùng có lợi.Vói sự cải cách quan trọng này, nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, nước ta có vị thế cao hơn trên trường quốc tế.
Đặc biệt trong những năm gần đây, đất nước ta đã và đang thực hiện những lộ trình quan trọng để hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, phấn đấu trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế. Sự tham gia vào quá trình này là một tất yếu khách quan, bên cạnh những thác thức không nhỏ,nó cũng đêm lại cho nước ta những lợi ích hết sức to lớn góp phần vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mội trong những qui luật cơ bản của kinh tế thị trường là qui luật cạnh tranh . Thực tế cho thấy ở đâu thiếu cạnh tranh thì ở đó thường trì trệ, bảo thủ và kém phát triển. Bởi vậy mặt tích cực của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, sản suất hàng hoá, chính là nó buộc người sản suất, các doang nghiệp phải thường xuyên động não , tích cực nhạy bén, năng động, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới và tổ chức tiết kiệm , có hiệu quả.
Trong cơ chế thị trường cạnh tranh hết sức khốc liệt cả trong và ngoài nước như vậy,để tồn tại và phát triển, đảm bảo thu đủ bù chi và đạt lợi nhuận tối đa buộc doanh nghiệp sản suất phải thực hiện tổng hoà nhiều biện pháp. một trong những biện pháp hữu hiệu nhất mà hầu hết các doanh nghiệp đều thực hiện là phấn đấu giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. đòi hỏi quản lý ngày càng cao không chỉ biết một cách chung chung, tổng thể mà còn phải tính toán được chi phí,giá thành cho từng hoạt động cho từng loại sản phẩm, công việc lao vụ dịch vụ. Hơn nữa giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế hết sức quan trọng trong quản lý hiệu quả và chất lượng sản suất kinh doanh, giá thành sản phẩm còn là tấm gương phản chiếu một cách trung thực trình độ tổ chức quản lý sản suất và hiệu quả của các biện pháp kinh tế mà doanh nghiệp đã và đang áp dụng trong quá trình sản suất kinh doanh.
Để thực hiện điều đó, kế toán với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ công cụ quản lý kinh tế tài chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành, kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là một công cụ hết sức hữu hiệu. Việc hạch toán giá thành chính xác tập chi phí đầy đủ, phù hợp với đặc điểm hình thành, hoạt động và phát sinh chi phí ở doanh nghiệp là yêu cầu có tính xuyên suốt trong quá trình hạch toán tại các doanh nghiệp. Kế toán tập hợp chi phí sản suất và tính giá thành sản phẩm còn phải phấn đấu tới việc cung cấp thông tin phục vụ cho yêu cầu quản trị, cho các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạch đó để phát huy các chức năng của mình, công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm ở mỗi doanh nghiệp cũng phải được không ngừng cải tién và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý ngày càng cao trong nền kinh tế thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm như vậy, xuất phát từ yêu cầu của công tác thực tập, qua thời gian thực tập và tình hình thực tế công tác kế toán tại xi nghiệp in 15, với kiến thức và lý luận đã được trang bị trong nhà trường, em đã chọn, di vào nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình với đề tài:
TỔ CHỨC CÔNG TÁC TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP IN 15
Khái quát chuyên đề gồm các mục sau:
Lời nói đầu
Chương I : Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản suất và tính giá
thành sản phẩm.
Chương II :Tình hình thực tế về công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại xi nghiệp in 15
Chương III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập
Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp in 15
Kết luận
Mặc dù hết sức cố gắng, song do trình độ nhận thức và lý luận còn hạn chế, thời gian tìm hiểu và thực tập không dài, vì vậy đề tài nghiên cứu này chăc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý quí báu của thầy cô cùng toàn thể bạn đọc để đề tài nghiên cứu cuả em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo thạc sỹ Nguyễn Văn Dậu, của ban lãnh đạo, các anh chị phòng tài vụ và các bộ phận liên quan của xí nghiệp in 15 đã hết sức giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1.1.1. Chi phí sản xuất
1.1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong một thời kỳ.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất, doanh nghiệp cần phải có 3 yếu tố cơ bản:
Tư liệu lao động: nhà xưởng, máy móc, thiết bị và những tài sản cố định khác.
Đối tượng lao động: nguyên vật liệu, nhiên liệu …
Lao động của con người.
Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải chi ra những chi phí sản xuất tương ứng. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí trên đều được biểu hiện bằng tiền. Trong đó:
- Chi phí về tiền công, trích BHXH, BHYT là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống.
- Chi phí về KHTSCĐ, chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu.v..v.. là biểu hiện bằng tiền của lao động vật hoá.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán và tập hợp theo thời kỳ: hàng tháng, hàng quý, hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo. Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ.
1.1.1.2. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm và đạt được mục đích là tạo ra được sản phẩm ở dưới mọi dạng thể có thể có được của nó. Xác định nội dung của chi phí sản xuất để thấy được bản chất của chi phí sản xuất là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong quản lý chi phí sản xuất của các doanh nghiệp .
Đi từ thực tế khách quan, chúng ta thấy con người không thể tồn tại được nếu không lao động, sản xuất tạo ra của cải vật chất, trong khi đó xã hội ngày càng phát triển thì sản xuất cũng ngày càng phát triển. Mà nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Vì vậy, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất.
Chi phí được hình thành do có sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào sản phẩm sản xuất và được biểu hiện trên hai mặt:
- Về mặt định tính: Đó là bản thân các yếu tố về vật chất phát sinh và tiêu hao tạo nên quá trình sản xuất và đạt được mục đích tạo ra sản phẩm.
- Về mặt định lượng: Đó là mức tiêu hao cụ thể của các yếu tố vật chất tham gia vào quá trình sản xuất và được biểu hiện qua các thước đo khác nhau mà thước đo chủ yếu là thước đo tiền tệ.
Cả hai mặt định tính và định lượng của chi phí sản xuất đều chịu sự chi phối thường xuyên của quá trình tái sản xuất và đặc điểm sản phẩm.
Nếu theo quan điểm của kế toán Việt Nam chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh trong kỳ nhất định thì theo quan điểm của Mỹ, chi phí được hiểu như là một khoản hao phí bỏ ra để thu được một số của cải vật chất hay dịch vụ. Còn theo quan điểm của Pháp, chi phí là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp bỏ ra để mua được các yếu tố của quá trình sản xuất nhất định để phục vụ cho quá trình sản xuất. Các quan điểm chi phí này tuy có sự khác biệt nhưng chúng lại có cùng một thước đo chung đó là tiền tệ. Bởi có nhiều quan điểm khác nhau nên để tránh nhầm lẫn phạm vi của chi phí dưới góc độ kế toán, cần phải phân biệt giữa chi phí và chi tiêu: Chúng ta chỉ được tính chi phí của một kỳ hạch toán gồm hao phí về chi phí tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi phí trong kỳ hạch toán. Trong khi đó, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Nhưng chi tiêu lại là cở sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Trên thực tế có những chi phí tính vào kỳ hiện tại nhưng chưa được chi tiêu (như các khoản phải trả) hay những khoản chi tiêu của kỳ hiện tại nhưng chưa được tính vào chi phí (như mua tài sản cố định rồi khấu hao dần đưa vào chi phí). Như vậy, chi phí và chi tiêu không chỉ khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, chúng có sự khác nhau như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán của chúng.
Đứng trên phương diện tính toán về mặt kinh tế, chi phí mà các doanh nghiệp phải chi trả đều nhằm mục đích là tạo ra những giá trị sử dụng nhất định cho xã hội biểu hiện thành các loại sản phẩm khác nhau. Nguyên tắc hoạt động đầu tiên của các doanh nghiệp là phải đảm bảo trang trải được các phí tổn đầu tư cho sản xuất sản phẩm. Như vậy khi sản xuất một sản phẩm nào đó thì chi phí dùng để sản xuất ra nó phải nằm trong giới hạn của sự bù đắp. Nếu vượt quá giới hạn này thì tất yếu doanh nghiệp sẽ bị phá sản.
1.1.1.3. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bao gồm nhiều loại có nội dung khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau, để phục vụ cho công tác quản lý chi phí sản xuất và kế toán tập hợp chi phí sản xuất nhằm thúc đẩy không ngừng việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và phát huy hơn nữa vai trò của công cụ kế toán với sự phát triển của doanh nghiệp. Bởi vậy, chi phí được phân loại theo các tiêu thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại chi phí sản xuất chủ yếu:
1.1.1.3.1. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí.
Theo cách phân loại này, căn cứ vào tính chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất khác nhau để chia ra các yếu tố chi phí, mỗi yếu tố chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng nội dung kinh tế, không phân biệt chi phí đó phát sinh ở lĩnh vực hoạt động sản xuất nào, ở đâu và mục đích hoặc tác dụng của chi phí như thế nào. Vì vậy cách phân loại này còn gọi là phân loại theo yếu tố. Theo quy định hiện hành toàn bộ chi phí sản xuất được chia ra 6 yếu tố sau:
Yếu tố nguyên liệu, vật liệu, động lực: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, động lực, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ, …dùng cho sản xuất.
Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương: Phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên sản xuất.
Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: Các khoản này được trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân viên sản xuất.
Yếu tố khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ cho tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất.
Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm toàn bộ số tiền doanh nghiệp đã chi trả về các loại dịch vụ mua từ bên ngoài như tiền điện, tiền nước, tiền bưu phí… phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất trong kỳ.
Phân loại chi phí theo tính chất, nội dung kinh tế của chi phí có tác dụng rất to lớn trong quản lý chi phí sản xuất, nó cho biết kết cấu tỷ trọng của từng yếu tố chi phí sản xuất để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất. Lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố ở bảng thuyết minh báo cáo tài chính; cung cấp tài liệu tham khảo để lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương,… cho kỳ sau.
1.1.1.3.2. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi phí
Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có mục đích và công dụng nhất định đối với hoạt động sản xuất. Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích công dụng của chi phí trong sản xuất để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau; mỗi khoản mục chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng mục đích và công dụng, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Vì vậy, cách phân loại này còn được gọi là phân loại chi phí theo khoản mục. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được chia thành các khoản mục chi phí sau:
* Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu… sử dụng vào mục đích trực tiếp sản xuất sản phẩm.
* Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền lương, trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất, không tính vào khoản mục này số tiền công và trích BHXH, BHYT, KPCĐ của nhân viên sản xuất chung, nhân viên quản lý và nhân viên bán hàng.
* Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất chung ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất. Gồm có: Chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, dụng cụ sản xuất, chi phí KHTSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền khác.
Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi phí có tác dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản xuất và lập kế hoạch giá thành sản phẩm cho kỳ sau. Qua đó sẽ giúp những nhà quản lý có biện pháp sử dụng chi phí một cách hợp lý, tiết kiệm, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
1.1.1.3.3. Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành.
Với mục đích kiểm tra chi phí, điều tiết chi phí cho phù hợp đồng thời thuận lợi cho việc lập kế hoạch, đề ra các quyết định kinh doanh. Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được phân chia theo mối quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách phân loại này chi phí được phân thành ba loại: chi phí biến đổi (biến phí), chi phí cố định (định phí) và chi phí hỗn hợp.
* Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng công việc hoàn thành. Tuy nhiên, các chi phí biến đổi nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định.
* Định phí là những chi phí không thay đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành. Nhưng các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi.
* Chi phí hỗn hợp là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố biến phí lẫn định phí. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện các đặc điểm của định phí, quá mức đó nó lại thể hiện đặc tính của biến phí.
Ngoài các cách phân loại trên, để phục vụ cho việc phân tích đánh giá tình hình sử dụng chi phí, chi phí sản xuất còn được phân loại thành:
- Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp
- Chi phí tổng hợp và chi phí đơn nhất
- ........................................................
Mỗi cách phân loại chi phí đều có những tác dụng nhất định trong công tác quản lý và hạch toán chi phí ở doanh nghiệp.
1.1. 2. Giá thành sản phẩm
1.1.2.1 Khái niệm giá thành sản phẩm
Trong quá trình sản xuất ở một doanh nghiệp, một mặt doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí sản xuất, mặt khác kết quả sản xuất của doanh nghiệp là thu được những sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định đã hoàn thành, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Những sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành gọi chung là thành phẩm cần phải được tính giá thành tức là những chi phí đã bỏ ra để sản xuất ra chúng. Theo quan điểm của kế toán Việt Nam hiện nay, giá thành được định nghĩa như sau:
“Giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành”
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng sản xuất, phản ánh hiệu quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện, nhằm đạt được mục đích sản xuất, được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí sản xuất tiết kiệm và hạ giá thành. Giá thành sản phẩm còn là căn cứ để tính toán xác định hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải ai có chi phí sản xuất phát sinh là đã xác định ngay được giá thành mà cần thấy được rằng, giá thành là chi phí đã kết tinh trong một kết quả sản xuất được xác định theo những tiêu chuẩn nhất định.
1.1.2.2. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm
Nói đến bản chất của giá thành tức là nói đến nội dung kinh tế chứa đựng bên trong của chỉ tiêu giá thành. Có nhiều quan điểm khác nhau đề cập đến vấn đề bản chất của giá thành, trong đó có một số quan điểm tiêu biểu sau:
Giá thành là hao phí lao động sống và lao động vật hoá được dùng để sản xuất và tiêu thụ một đơn vị hoặc một khối lượng sản phẩm nhất định. Quan điểm này nêu lên được những yếu tố vật chất bên trong cấu thành nên bản thân sản phẩm và thực hiện giá trị của sản phẩm. Nó cho người ta thấy được chi phí sản xuất là nội dung cơ bản của giá thành, tiết kiệm được chi phí sản xuất theo hướng tuyệt đối và tương đối đều là những biện pháp cơ bản để hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng cường doanh lợi. Song nó lại đặt ra những ràng buộc trong xác định nội dung cấu thành giá thành, làm cho giá thành trở thành yếu tố cứng nhắc phụ thuộc vào các quy định, điều này lại không phù hợp với biến động thường xuyên của các đầu vào trong cơ chế thị trường.
Giá thành sản phẩm là toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bất kể nó nằm ở bộ phận nào trong các bộ phận cấu thành sản phẩm. Theo quan điểm này, để tiếp cận với bản chất của giá thành trước hết cần xem xét và giải quyết sự hình thành, phát sinh của các loại chi phí đó là: Tổng chi phí cố định và tổng chi phí biến đổi. Tổng chi phí là tổng cộng của chi phí bất biến và chi phí khả biến tương ứng với mỗi mức sản lượng.
Giá thành là biểu hiện mối liên hệ tương quan giữa một bên là chi phí sản xuất và một bên là kết quả đạt được trong từng giai đoạn nhất định. Đây là quan điểm gắn liền với yêu cầu đánh giá chất lượng sản xuất ở từng giai đoạn sản xuất hoặc bộ phận sản xuất mà ở đó có thể xác định lượng chi phí tiêu hao và kết quả sản xuất đạt được. Quan điểm này không đi vào phân tích nội dung bên trong cấu thành nên giá thành sản phẩm mà chú trọng đến việc đi tìm một đại lượng tương quan phục vụ kịp thời cho việc kiểm tra, phân tích và đánh giá hiệu quả hoạt động theo yêu cầu của việc thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh nội bộ.
Tóm lại, có thể nói bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố vật chất vào giá trị sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ. Chưa có sự chuyển dịch này thì không thể nói đến chi phí và giá thành sản phẩm. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, giá thành bao gồm toàn bộ các khoản hao phí vật chất thực