Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 bao gồm những giai đoạn khác nhau, với những đặc điểm khác nhau, song nhìn một cách tổng quát, cơ chế quản lý là cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Cơ chế này được duy trì trong một thời gian dài đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được Đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước"((1) Văn kiện Đại hội VII. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. NXB Sự thật, Hà Nội, 1991 trang 23.1).
Hiện nay, sự vận động của nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang một trạng thái gần như hoàn toàn mới, vì vậy, quản lý kinh tế theo cơ chế cũ của Nhà nước không còn phù hợp nữa. Cơ chế kinh tế mới đòi hỏi ở Nhà nước một sự thay đổi căn bản trong hoạt động điều hành nền kinh tế để làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả cao. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN đã đặt ra yêu cầu Nhà nước Việt Nam phải tăng cường quản lý vĩ mô nhằm định hướng và chỉ đạo sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo môi trường thuận lợi và khung khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh, phát huy mặt tích cực cũng như ngăn ngừa, khống chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Vì vậy, việc nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có ý nghĩa thời sự và quan trọng trong tình hình đất nước hiện
nay. Với lý do như vậy, em đã chọn vấn đề "Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay" làm đề tài nghiên cứu.
22 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- Lời mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 bao gồm những giai đoạn khác nhau, với những đặc điểm khác nhau, song nhìn một cách tổng quát, cơ chế quản lý là cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Cơ chế này được duy trì trong một thời gian dài đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được Đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước"(1) Văn kiện Đại hội VII. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. NXB Sự thật, Hà Nội, 1991 trang 23.
.
Hiện nay, sự vận động của nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang một trạng thái gần như hoàn toàn mới, vì vậy, quản lý kinh tế theo cơ chế cũ của Nhà nước không còn phù hợp nữa. Cơ chế kinh tế mới đòi hỏi ở Nhà nước một sự thay đổi căn bản trong hoạt động điều hành nền kinh tế để làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả cao. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN đã đặt ra yêu cầu Nhà nước Việt Nam phải tăng cường quản lý vĩ mô nhằm định hướng và chỉ đạo sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo môi trường thuận lợi và khung khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh, phát huy mặt tích cực cũng như ngăn ngừa, khống chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Vì vậy, việc nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có ý nghĩa thời sự và quan trọng trong tình hình đất nước hiện nay. Với lý do như vậy, em đã chọn vấn đề "Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay" làm đề tài nghiên cứu.
B.Nội dung
Phần i
đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tính tất yêu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế
i. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước Đẩi với nền kinh tế thị trường
1.Những điều kiện hình thành nền kinh tế hàng hoá & nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường (KTHH) là sự phát triển kế tiếp và biến đổi về chất so với nền kinh tế tự nhiên trên cơ sở phân công lao động xã hội đã phát triển. KTHH là nền kinh tế hoạt động theo quy luật sản xuất và trao đổi hàng hoá, sản xuất sản phẩm cho người khác tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán, trao đổi hàng-tiền. Nếu sản xuât để tư tiêu dùng thì không phảI là nền KTHH, mà là nền kinh tế tự nhiến tự cấp tự túc. Ngay cả khi sản xuất cho người khác tiêu dùng như phân phối dưới dạng hiện vật (hàng đổi hàng) cũng không gọi là KTHH
Vậy, KTHH hình thành dựa trên sư phát triển của phân công lao động xã hội, của trao đổi giữa những người sản xuất với nhau. Đó là kiểu tổ chưc kinh tế xã hội, trong đó quan hệ trao đổi giữa người và người được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi hàng hoá giá trị
KTTT là nền kinh tế vận động theo những quy luật của thị trường trong đó quy luật giá trị giữ vai trò chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung cấp trên thị trường. Các vấn đề về tổ chức sản xuất hàng hoá được giải quyết bằng sự cung ứng hàng hoá, dịch vụ và nhu cầu tiêu dùng trên thị trường. Các quan hệ hàng hoá phát triển mở rộng, bao quát trên nhiều lĩnh vực có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng. Các hoạt động sản xuất, dịch vụ…được quyết định từ thị trường về giá, sản lượng, chất lượng vì động cơ đạt tới lợi nhuận tối đa.
Nền KTTT là giai đoạn phát triển cao của sản xuất hàn hoá. Nó nằm trong tiến trình phát triển khách quan về kinh tế trong xã hội loài người.
*Những điều kiện bảo đảm cho nền KTTT hình thành và phát triển
Thứ nhất: Phải có nền KTHH phát triển, điều đó có nghĩa là phải có sự phân công lao động xã hội phát triển, có các hình thưc, các loạI hình sở hưu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Thư hai: Phải có sự tự do trong trao đổi hàng hoá trên thị trường, tự do lựa chọn bạn hàng giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh.
Trong một nền kinh tế có nhiều chủ thể cùng sản xuất một loại sản phẩm; và ngượi lại mỗi chủ thể sản xuất và tiêu dùng cũn cần nhiêu loại hàng hoá khác nhau. Việc tự do lựa chọn, xây dựng các mối quan hệ bạn hàng là điều kịên không thể thiếu được để các chu thể kinh tế lựa chọn cho mình những phương án tối ưu. Đó là một điều kiện rất quan trọng bảo đảm cho nền KTTT phát triển.
Trước đây trong đIều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, toàn bộ yếu tố đầu vào, đầu ra, sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, bằng cách nào và phân phối theo địa chỉ nào…tất cả đều theo một hệ thống pháp lệnh chi tiết, cụ thể theo kế hoạch. Do vậy các quan hệ thị trường trao đổi ngang giá không còn đúng nghiã nữa mà biến dạng đi rất nhiều.
Thứ ba : Sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo những quy luật của thị trường, theo giá cả thị trường.
+ Quy luật giá trị đòi hỏi: hao phi lao động cá biệt của mỗi đơn vị sản phẩm của chủ thể sản xuất kinh doanh bất kì phải nhỏ hơn hao phí lao động xã hội để sản xuất ra đơn vị sản phẩm cùng loại trong cùng một thời gian và không gian nhất định. Đó là điều kiện tiên quyết cho các chủ thể sản suất kinh doanh tồn tại và phát triển.
+Trong nền KTTT, một sản phẩm hàng hoá trao đổi phải thông qua giá cả thị trường. Giá cả là hình thái biểu hiện bằng tiền của giá trị, có thể cao hơn hay thấp hơn đối với một số hàng hoá nào đó.Song giá cả vẫn xoay quanh trục giá trị, xét trên một thời gian dài tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị. Và giá cả thị trường là hạt nhân của cơ chế thị trường.
Muốn hình thành và phát triển KTTT, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải tuân thủ giá cả thị trường. Đương nhiên giá cả thị trường không phảI là yếu tố duy nhất có tác động quyết định đến người sản xuất. Căn cứ vào yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế, Nhà nước có thể cần phải điều tiết giá cả ở một số mặt hàng thiết yếu quan trọng có, liên hệ chặt chẽ đến sự ổn định đời sống kinh tế xã hội, có lợi cho quốc kế dân sinh nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường…
Thứ tư: Trong điều kiện phân công lao động quốc tế đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, việc tham gia phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế là một yêu cầu khách quan. Không thể có một nền KTTT nào phát triển được nếu hoạt động của nó bó hẹp trong khuôn khổ một quốc gia nhất định. Do vậy việc tham gia phân công lao động quốc tế, mở rộng quan hệ với bên ngoài, gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài là điều kiện quan trọng cho sự phát triển kinh tế nói chung và nền KTTT mang mầu sắc Việt Nam nói chung.
2. Các mô hình kinh tế thị trường.
Trên thực tế thế giới đã tồn tại nhiều mô hình KTTT như sau:
KTTT truyền thông Tây Âu.
KTTT kiển Nhật Bản.
KTTT xã hội Công Hoà Liên Bang Đức.
KTTT xã hội chủ nghĩa Trung Quốc.
KTTT có sự quản lý của Nhà nước.
Trong lịch sử, không ở đâu và không khi nào có hệ thống thị trường thuần tuý. ở bất kì nền kinh tế nào người ta cũng tìm thấy sự hiện diện vai trò của Nhà nước. Nhà nước đã và đang thục hiện những điều tiết kinh tế vĩ mô thông qua những công cụ của mình nhằm đạt được một trật tự nhất đinh trong nền kinh tế xã hội.
Với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản suất và của lợi ích của giai cấp thống trị –giai cấp tư sản- đã đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế càng tăng lên. ở mỗi nước, đối với bất kỳ loại hình phương thức sản xuất nào, tuỳ theo mô hình và phương thức tổ chức nền kinh tế hàng hoá, đều có sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp đó chỉ khác nhau ở mức độ, phương thức can thiệp, phạm vi can thiệp và phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước.
ở Mĩ, từ đầu thế kỷ này đã bắt đầu mở rộng sự can thiệp của Nhà nước liên bang đối với nền kinh tế .Vai trò của chính phủ liên bang biểu hiện trên các mặt sau đây:
-Thứ nhất: Chính phủ liên bang bang chịu trách nhiệm xây dựng và không chế hoạt động thuộc kết cấu hạn tằng của nền kinh tế như đường xá giao thông, phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc và năng lượng.
-Thứ hai: Tạo ra môi trường tự do cạnh tranh, xây dựng các đạo luật chống độc quyền.
-Thứ ba: Kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng các công cụ tài chính, tiền tệ, tổ chức hệ thông ngân hàng hai cấp, ngân hàng trung ương và ngan hàng thương mại. Trong đó, ngân hàng trung ương vừa làm chức năng dự trữ vữa làm chức năng điều tiết và kiểm soát lượng tiền tệ được cung ứng thông qua hệ thống ngân hàng thương mại.
ở cộng hoà kiên bang Đức, phạm vi can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế hẹp hơn. Sau chiến tranh thế giới lần thứ !! Nhà nước cộng hoà liên bang Đức xxây dựng nền kinh tế của mình theo mô hình “kinh tế thị trường xã hội”. Theo mô hình này, nền kinh tế được hình dung như một sân bóng, trong đó mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ. Nhà nước không chơi mà đóng vai trò là người thiết kế luật chơi và dùng luật chơi để điều khiển làm cho nền kinh tế có thể tránh được khủng hoảng thất nghiệp, lạm phát.
Khác với Mĩ và cộng hoà liên bang Đức, các Nhà nước Bắc Âu hình dung nền kinh tế như một quá trình vận động từ sản xuất đến tiêu dùng, thông qua mắt khâu trung gian là phân phối của cải dưới hình thức thu nhập. Bằng qyêfn lực hành chính Nhà nước có thể can thiệp vào tất cả các mắt khâu hoặc vào một trong những mắt khâu nào đó. Can thiệp vào đâu đó là tuỳ thuộc vào lợi ích thu được. Các Nhà nước bắc Âu đã lựa chọn phương thức can thiệp vàokhâu phân phối lại thu nhập bằng công cụ thuế. Thông qua việc điều chỉnh cơ cấu thuế và chi tiê các chính phủ Bắc Âu hướng nền kinh tế của họđến các mục tiêu: Thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, bằng cách đem lại cho mọi thành viên trong xã hội một phúc lợi như nhau được tạo ra từ nguồn thu chủ yếu từ thuế.
Các nước được kể ra trên đã rất thành công trong công việc tổ chức một nền kinh tế thị trường có cự quản lý của Nhà nước. Mặc dù cách hể hiện vai trò của Nhà nước là rất khác nhau. Điều này chứng tỏ vai trò điều tiết của Nhà nước là rất quan trọng, thêm nữa không có mô hình nào là toàn diện và có thể áp dụng trên toàn thế giới, mỗi nước phải tự tìm cho mình một cách thức riêng để điều tiết nền kinh tế của mình nhằm đạt được mục tiêu mong muốn.
3. Xét về mặt nội dung của các giai đoạn phát triển của nền KTTT.
*Giai đoạn 1 : Những yêú tố cơ bản nhất của nền KTTT được tạo ra với ưu thế của bàn tay vô hình của thị trường, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu đòi chế độ tự quản.v.v..Nhưng ngay từ đầu đã có sự can thiệp của bàn tay hữu hình của Nhà nước, đồng thời phải tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá…
*Giai đoạn 2 : Tạo lập một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh mà ở đó vai trỏ của Nhà nước ngày càng tăng. Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô theo đó được nâng lên bao hàm một sự biến đổi căn bản trong các hình thức tổ chúc thị trường về cơ cấu quản lý KTTT. Sự tác động qua lạI và quy định lẫn nhau đó, theo nguyên tác tự dovà được kết hợp chặt chễ theo khuôn khổ mục tiêu của nền KTTTcó sự qủn lý của Nhà nước.
*Giai đoạn 3: Những yêu tố mới của sự tiến bộ xã hội (khoa học công nghệ, dân trí, quốc tế hoá…) càng đòi hỏi ở nền KTTT sự phát triển cao, tính xã hội của nền KTTT càng tăng, vai trò cuả Nhà nước càng lớn và tương ứng với nó là sự thay đổi phương thức quản lý thích hợp.
4. Những ưu thế của nền KTTT
a)Những ưu thế của nền KTTT thể hiện:
Thứ nhất: Thúc đẩy sản xuất, gắn sản xuất với tiêu thụ-mục tiêu của sản xuất. Do đó người ta tìm mọi cách rút ngắn chu kì sản xuất, thục hiện táI sản xuất mở rộng, áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ…nhằm đật được lợi nhuận tối đa
Thư hai: Thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động thích nghi với các đIều kiện biến động của thị trường. Thay đổi mẫu mã sản xuất,m tìm mặt hàng mới và thị trường tiêu thị, mở rộng quan hệ trong kinh doanh, tìm cách đạt lợi nhuận tối đa.
Thư ba: Thúc đảy sự tiến bộ của khoa học công nghệ, kích thích tăng năng suất lao động , nâng cao trình độ xã hội háo sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ gía thành, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của khách hàng và của thị trường
Thư tư: Thúc đẩy sự tăng trưởng dồi dào của sản phẩm hàng hoá dịch vụ, thúc đảy và kích thích sản xuất hàng hoá phát triển, đề cao trách nhiệm của nhà kinh doanh đối với khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Thứ nam: Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản, tập trung dsản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất là hai con đường để mở rộng quy mô sản xuất. Một mặt, các đơn xị chủ thể làm ăn giỏi, có hiệu quả cao cho phép mở rộng quy mô sản xuất. Mặt khác, chỉ những đơn vị làm ăn có hiệu quả thì mới tồn tạI, mới đứng được trên thị trường. Chính quá trình cạnh tranh kinh tế là động lực thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất.
a)Những khuyết tật của nền KTTT thể hiện:
Thứ nhất: Nền KTTT mang tính tự phát tìm kiếm lợi nhuận bằng bất kì giá nào, không đi đúng hướng của kế hoạch nhà nước, mục tiêu về phát triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến tập trung hoá cao, sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung.
Thứ hai: KTTT, “cá lớn nuốt cá bé” dẫn đến phân hoá đời sống dân cư, một bộ phận dẫn đến phá sản, phân hoá giầu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và số đông người lao động lâm vào cảnh nghèo khó.
Thứ ba: Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trạng nền kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội. Nhà kinh doanh thường tìm đủ thủ đoạn, mánh khoé_làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế…không từ bỏ một thủ đoạn nào nhằm thu được lợi nhuận tối đa.
Thứ tư: Vì mục tiêu lợi ích cá nhân, dẫn đến sự sử dụng bừa bãi, tàn phá các nguồn tài nguyên và huỷ diệt một cách tàn khốc tài nguyên môi trường sinh thái.
Thứ năm: Nền KTTT vận hành theo CCTT, có chế này có thể gây ra sự mất ổn định thường xuyên, phá cõ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Hởu quả tiêu cực của nó thường đi liền với những vấn đề nan giải.Thực tế phát triển nền KTTT trong mấy chục năm qua chỉ rõ vấn đề lạm phát, thất nghiệp và chu ky kinh doanh là những căn bênh kinh niên không thể khắc phục được nếu không có sự can thiệp của Nhà nước.
Thêm nữa, trong nền KTTT thường tồn tại những ngành nghề kinh tế thiếu sự cạnh tranh vì ở đó có mức lợi nhuận thấp, số vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn rất chậm nhưng rất càn cho sự ổn định phát triển kinh tế và rất cần cho việc giải quyết những vấn đề xã hội…
Qua trên ta thấy, nền KTTT có khả năng tập hợp tự động được hành động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng đến lợi ích chung của cả xã hội. Nhưng nền KTTT không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà trong hệ thống đó cũng chứa đựng rất nhiều các yếu tố phức tạp và nan giải. Vì vậy để khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường (CCTT) cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Từ đó hình thành khái niệm CCTT có sự quản lý của nhà nước. Đó là một dạng đặc biệt của loại hình KTTT. Nếu như sự vận động của nền KTTT truyền thống, cổ điển, hoang dã tuân theo sự điều khiển của “bàn tay vô hình” cung- cầu - giá cả thì sự vận động của nền KTTT có sự quản lý (điều khiển, điều tiết) của Nhà nước tuân theo sự điều khiển song hành, tức là sự tác động cùng một lúc của hai yếu tố :Yếu tố tự vận động bởi quan hệ cung_cầu và yếu tố nhà nước tức là vai trò của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế. Theo bản chất của mình, nền KTTT có sự quản lý của nhà nước không chỉ vận động theo CCTT, cũng không chỉ vận động theo cơ chế chỉ huy mà vận động bởi sự tác động đồng thời của hai cơ chế ấy. Chính vì vậy người ta gọi đó là cơ chế hỗn hợp. Như vậy, nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế vận động theo CCTT có sự quản lý của Nhà nước.
Trong KTTT, Nhà nước với tư cách là người điều hành, quản lý xã hội, đồng thời là khách hàng lớn của các chủ thể kinh tế. Nhà nước thường bảo đảm các dịch vụ bưu điện, thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, giao thông vận tải…Nhà nước dùng pháp luật để điều hành; dùng các chính sách như chính sách đối nội, đối ngoại, chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động, vạch ra kế hoạch phát triển, hạn chế những tiêu cực do KTTT sinh ra, chống khủng hoảng và thất nghiệp v.v..
Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường, phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế-xã hội trong từng thời kỳ; mặt khác, nhằm sửa chữa, khắc phục những khuyết tật vốn có của KTTT, tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị trường mà không vi phạm cơ chế tự đIều chỉnh ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó, Nhà nước kiềm chế sưc mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời phát huy được những ưu thế vốn có của KTTT.
Cũng từ những khuyết tật mà ta phân tích ở trên của nền KTTT , ta nhận thấy tính tất yếu khách quan vai trò của Nhà nước đối với nền KTTT mà không cần thiết phải đi sâu phân tích quá trình lịch sử rồi mới đi đến kết luận. (đây là suy nghĩ mang tính chất chủ quan của riêng em, nếu có sai xót em rất mang được sự chỉ bảo từ thầy).
ii. cơ chế thị trường ở nước ta và Các đặc đIểm, đặc trưng của kttt định hướng XHCN
1.Về đặc điểm của cơ chế thị trường hiện nay
Có nhiều cách tiếp cận, phân tích, lý giải khác nhau khi nhìn vào sự vận động của nền kinh tế hiện nay. Mục này trình bày những đặc trưng của cơ chế thị trường trên cơ sở nhìn lại những năm đổi mới, đồng thờicó kiên hệ đến bước đi, những quá trình có tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường có cự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Với cách tiếp cận như trên, những đặc điểm lớn của nền kinh tế thị trường cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta là:
Từng bước thực hiện những quá trình mang tính quy luật của bước chuyển từ nên kinh tế tập trung bao cấp sang CCTT có sự quản lý của Nhà nước, với tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá; từng bước chuyển lên CCTT đích thực.
Cơ chế đó là phát huy vai trò điều tiết của thị trường, hình thành bước đầu một thị trường canh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông thông suốt, cung cầu được cân đối, khắc phục tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn.
CCTT đã góp phần thúc đẩy việc phải xử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở hữu, với sự thừa nhận và đánh giá cao chính sách kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ thái độ kỳ thị và phân biệt đối xử với kinh tế tư nhân sang chính sách đối xử binh đẳng; đồng thời cũng xác định được những biện pháp nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế quốc doanh cho phù hợp với thực tiễn nước ta.
Cơ chế tài chính, tiền tệ, tín dụng, giá cả, lãi suất… đã từng bước được đổi mới đặc biệt cơ chế giá và tỉ giá được hình thành thông qua thị trường đã tạo ra bước ngoặt trong cơ chế kinh tế.
CCTT còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn-sản phẩm của một nền kinh tế cơ bàn là sản xuất nhỏ, của sự yếu kếm của bộ máy quản lý Nhà nước, tình trạng quan liêu thiếu hiểu biết, thâm trí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Trước hết có thể thấy thể chế thị trường chưa tạo môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt những yêu kém trong thể chế tài chình tín dụng là lực cản của quá trình chuyển đổi.
CCTT còn thiếu đồng bộ, có sự không ăn khớp giữa hai thị trường: thị trường hàng hoá thì phát triển khá mạnh mẽ trong khi thị trường các nhân tố sản xuất thì có sự lạc hậu khá lớn.
Thêm nữa, sự hình thành và vận độnh của nần KTTT còn mang nhiều yêu tó tự phát, cơ chế vận hanh thô sơ tạo đIều kiện cho làm ăn bất chính; cơ chế quản lý thì đổi mới thiếu triệt để tạo mội trường thuận lợi cho tệ nạn tham nhũng và các mặt tiêu cực của thị trường phát sinh, phát triển.
CCTT có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng XHCN là vấn đề vẫn còn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và không có mô hình vạch sẵn. Do vậy không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường; cũng không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của bước chuyển mà phải vừa thực hiện CCTT vừa tổng kết để tiếp tục thực hiện.
Chúng ta chủ chương chuyển