Đói nghèo là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường, nó tồn tại một cách khách quan và nó là vấn đề có tính quy luật. Đặc biệt ở nước ta trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trườngvới xuất phát điểm thấp thì tình trạng đói nghèo lại càng không thể tránh khỏi thậm trí còn trầm trọng và gay gắt hơn. Đói nghèo không phải là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến ở khắp các vùng trong phạm vi toàn quốc từ thành thị đến nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng dân tộc thiểu số.
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng đã đưa nền kinh tế đất nước đạt được những thành tựu đáng kể. Trước hết là sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, năng xuất và sản lượng các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi tăng khá nhanh. Từ một nước phải lo nhập khẩu lương thực, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Cơ cấu sản phẩm nông nghiệp nói riêng và cơ cấu sản xuất nông thôn nói chung đã từng bước chuyển dịch hướng tới phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá, đồng thời đã xuất hiện nhiều mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp và dịch vụ ở nông thôn như: Các làng nghề truyền thống, các trang trại, các tổ hợp dịch vụ. Đời sống của người nông dân dần đước cải thiện về mọi mặt.
Song cùng với sự phát triển đó sự phân hoá giữa giàu nghèo có xu hướng ngày càng tăng, một bộ phận dân cư vươn lên làm ăn có hiệu quả trong cơ chế thị trường thu nhập cao trở lên giàu có, bên cạnh đó không Ýt người do môi trường điều kiện tự nhiên, khí hậu khắc ngiệt, địa hình phức tạp thiên tai mất mùa. và nhiều nguyên nhân khác dẫn tới ngưỡng cửa đói nghèo.
Mét trong những yêu cầu bức súc hiện nay đang là vấn đề nổi cộm lên như một trở ngại lớn đối với hộ nông dân nghèo là thiếu vốn phục vụ cho sản xuất nhất là vốn cho các hộ nông dân nghèo có điều kiện sản xuất nhưnh đang trong tình trạng thiếu vốn, nghèo đói.
Tuy nhiên để ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì phải cần có nhiều điều kiện như vốn lớn muốn như vậy thì phải có những chính sách, những biện pháp huy động vốn cụ thể bên cạnh những phương hướng hoạt động cụ thể, cách thức triển khai hoạt động như thế nào cho đạt hiệu quả nhất đó.
Xuất phát từ những vấn đề đó, qua thời gian thực tập tại ngân hàng nông nghiệp, em đã lựa chọn đè tài này: “Việc tín dụng cho hộ nông dân ở ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện mỹ hào ”làm báo cáo chuyên đề thực tập.
Trong báo cáo này chủ yếu về những vấn đề lý luận của việc thực hiện các chính sách và thể lệ cho vay đối hộ nông dân nghèo.
Chuyên đề được chia thành 3 phần:
A- Lời mở đầu
B- Nội dung
I) Tổng quan về kinh tế hộ nông dân
II) Hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với hộ nông dân .
III) Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với hộ nông dân.
C- Kết luận.
60 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Việc tín dụng cho hộ nông dân ở ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Mỹ Hào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đói nghèo là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường, nó tồn tại một cách khách quan và nó là vấn đề có tính quy luật. Đặc biệt ở nước ta trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trườngvới xuất phát điểm thấp thì tình trạng đói nghèo lại càng không thể tránh khỏi thậm trí còn trầm trọng và gay gắt hơn. Đói nghèo không phải là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến ở khắp các vùng trong phạm vi toàn quốc từ thành thị đến nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng dân tộc thiểu số...
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng đã đưa nền kinh tế đất nước đạt được những thành tựu đáng kể. Trước hết là sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, năng xuất và sản lượng các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi tăng khá nhanh. Từ một nước phải lo nhập khẩu lương thực, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Cơ cấu sản phẩm nông nghiệp nói riêng và cơ cấu sản xuất nông thôn nói chung đã từng bước chuyển dịch hướng tới phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá, đồng thời đã xuất hiện nhiều mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp và dịch vụ ở nông thôn như: Các làng nghề truyền thống, các trang trại, các tổ hợp dịch vụ... Đời sống của người nông dân dần đước cải thiện về mọi mặt.
Song cùng với sự phát triển đó sự phân hoá giữa giàu nghèo có xu hướng ngày càng tăng, một bộ phận dân cư vươn lên làm ăn có hiệu quả trong cơ chế thị trường thu nhập cao trở lên giàu có, bên cạnh đó không Ýt người do môi trường điều kiện tự nhiên, khí hậu khắc ngiệt, địa hình phức tạp thiên tai mất mùa... và nhiều nguyên nhân khác dẫn tới ngưỡng cửa đói nghèo.
Mét trong những yêu cầu bức súc hiện nay đang là vấn đề nổi cộm lên như một trở ngại lớn đối với hộ nông dân nghèo là thiếu vốn phục vụ cho sản xuất nhất là vốn cho các hộ nông dân nghèo có điều kiện sản xuất nhưnh đang trong tình trạng thiếu vốn, nghèo đói.
Tuy nhiên để ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì phải cần có nhiều điều kiện như vốn lớn muốn như vậy thì phải có những chính sách, những biện pháp huy động vốn cụ thể bên cạnh những phương hướng hoạt động cụ thể, cách thức triển khai hoạt động như thế nào cho đạt hiệu quả nhất đó.
Xuất phát từ những vấn đề đó, qua thời gian thực tập tại ngân hàng nông nghiệp, em đã lựa chọn đè tài này: “Việc tín dụng cho hộ nông dân ở ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện mỹ hào ”làm báo cáo chuyên đề thực tập.
Trong báo cáo này chủ yếu về những vấn đề lý luận của việc thực hiện các chính sách và thể lệ cho vay đối hộ nông dân nghèo.
Chuyên đề được chia thành 3 phần:
Lời mở đầu
Nội dung
Tổng quan về kinh tế hộ nông dân
Hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với hộ nông dân .
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với hộ nông dân.
Kết luận.
B- NỘI DUNG
I) Tổng quan về kinh tế hộ nông dân
1) Khái niệm và những đặc trưng cơ bản về kinh tế hộ nông dân
Từ lâu chúng ta quan niệm: Hộ gia đình ở nông thôn làm nông nghiệp được gọi là nông hộ. Phát triển kinh tế hộ nông dân là phát triển kinh tế gia đình nông dân. Hầu như tất cả các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động của nông hộ.
Từ đó ta có thể hiểu kinh tế hộ nông dân ( kinh tế nông hộ ) là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội trong đó các nguồn lực như đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất được coi là của chung để tiến hành sản xuất. Những thành viên trong nông hộ có cùng chung một ngân quỹ, cùng ở, sinh hoạt chung một nhà. Mọi quyết định sản xuất kinh doanh và đời sống phụ thuộc vào chủ hộ. Được Nhà nước thừa nhận và hỗ trợ tạo điều kiện để phát triển. Do vậy hộ không thuê lao động, không có khái niệm tiền lương và không tính được lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Nông hộ chỉ có thu nhập của tất cả các hoạt động kinh tế. Đó là sản lượng thu được hàng năm của hộ trừ đi chi phí mà hộ đã bỏ ra phục vụ sản xuất.
Kinh tế nông hộ tồn tại độc lập với các phương thức sản xuất xã hội, nên khi phương thức xã hội nào đó bị thủ tiêu thì kinh tế nông hộ vẫn tồn tại. Nó có một số đặc trưng cơ bản là:
Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu với quá trình quản lý sử dụng các yếu tố sản xuất do sở hữu trong nông hộ là sở hữu chung. Mặt khác do sở hữu trong nông hộ dựa trên cơ sở kinh tế chung và chung một ngân quỹ nên hiệu quả sử dụng lao động trong kinh tế nông hộ cao.
Lao động quản lý và lao động trực tiếp trong nông hộ có sự gắn bó chặt chẽ. Trong nông hộ, chủ hộ thường vừa là người điều hành quản lý đồng thời lại là người trực tiếp tham gia lao động sản xuất nên tính thống nhất giữa lao động quản lý và lao động trực tiếp cao.
Do kinh tế nông hộ thường được tổ chức với quy mô nhỏ hơn các loại hình doanh nghiệp nông nghiệp khác nên sự điều hành sản xuất và quản lý cũng đơn giản gọn nhẹ. Đồng thời thời tăng khả năng thích nghi và tự điều chỉnh rất cao. Nếu gặp điều kiện thuận lợi thì hộ tập trung nhân lực, thậm chí còn bớt khẩu phần tất yếu của mỗi thành viên để mở rộng quy mô sản xuất. Còn nếu gặp khó khăn thì thu hẹp quy mô sản xuất bằng cách quay về sản xuất tự cung tự cấp.
Có sự gắn bó chặt chẽ giữa quá trình sản xuất với lợi Ých của người lao động. Do mọi thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau cả trên cơ sở kinh tế và huyết tộc nên kết quả sản xuất kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp tới lợi Ých kinh tế thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển sản xuất của mỗi cá nhân, là nhân tố nâng cao hiệu quả sản xuất của kinh tế nông hộ.
2) Sự phân loại kinh tế nông hộ
Kinh tế nông hộ được chia thành bốn loại căn cứ vào tính chất, đặc diểm sau:
a) Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động:
Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không phản ứng với thị trường: loại hộ này có mục tiêu là tối đa hoá lợi Ých, tự cấp tự túc những sản phẩm cần thiết để phục vụ trong gia đình.
Hộ nông dân bắt đầu có phản ứng với thị trường: loại hộ này còn gọi là “ nửa tự cấp ”, ở đây hộ có phản ứng với thị trường , giá cả nhưng ở mức độ thấp.
Hộ nông dân sản xuất hàng hoá là chủ yếu: loại hộ này mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị trường vốn, đất đai, lao động...
b) Theo tính chất sản xuất:
Hộ thuần nông: là loại hộ chỉ thuần tuý sản xuất nông nghiệp.
Nông hộ kiêm: là loại hộ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề tiểu thủ công nghiệp.
Nông hộ chuyên: là loại hộ làm dịch vụ kỹ thuật cho nông nghiệp ( cơ khí, mộc, rèn, sản xuất vật liệu xây dựng, loại hộ trên không ổn định mà có thể thay đổi khi điều kiện cho phép.
c) Căn cứ vào mức thu nhập của nông hộ: vận tải...)
Nông hộ buôn bán: loại hộ này tập trung ở nơi đông dân cư, họ có quầy hàng riêng hoặc buôn bán ở chợ.
Các
Hộ giàu
Hộ khá
Hé trung bình
Hộ nghèo
Hộ đói
Sự phân biệt này thường dựa vào quy định chung hoặc quy định riêng ở từng địa phương.
3. Vai trò và ý nghĩa của việc phát triển kinh tế hộ nông dân với ngành nông nghiệp – nông thôn Việt Nam
Muốn phát triển nông nghiệp – nông thôn không thể không bàn đến nông dân, nhất là với các nước chưa phát triển như nước ta.Nông dân quản lý và sử dụng đại đa số các nguồn lực sản xuất: đất đai, lao động, tư liệu sản xuất ( chiếm khoảng 80% dân số và trên 70% lao động xã hội ). Mức GDP trong nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn 35% so với tổng thu nhập . Do đó khi nghiên cứu nền kinh tế quốc dân ta không thể không nghiên cứu kinh tế hộ nông dân ( kinh tế nông hộ ).
Kinh tế nông hộ đã góp phần làm tăng nhanh sản lượng sản phẩm cho xã hội như lương thực, thực phẩm, các sản phẩm cây công nghiệp, nông sản xuất khẩu...ở nước ta, kinh tế nông hộ tuy quy mô còn nhỏ, phân tán và lượng vốn còn Ýt nhưng đã cung cấp cho xã hội:
+ 95% sản lượng thịt.
+ 90% lượng trứng.
+ 93% sản lượng rau quả.
+ Sản xuất nông hộ chiếm 48% giá trị tổng sản lượng của ngành nông nghiệp.
Góp phần sử dụng đầy đủ và có hiệu quả các yếu tố sản xuất nh đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất.
Tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân ở nông thôn.
Bằng nhiều biện pháp cụ thể, Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho kinh tế nông hộ phát triển: mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho nông hộ, giảm bớt những thủ tục phiền hà trong việc huy động vốn để phát triển kinh tế....Kinh tế nông hộ nhờ đó mà cũng đã có một số thay đổi lớn, làm cho sản lượng lương thực qua các năm không ngừng tăng lên. Giá trị nông sản xuất khẩu tăng gần 6 lần trong 10 năm đổi mới: từ 542 triệu USD( 1987 ) lên 3.200 triệu USD( 1996 ) chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ( Theo đánh giá của Ban nông nghiệp TW ).
4) Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân :
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân. Thực tế cho thấy tín dụng ngân hàng kích thích sự tăng trưởng kinh tế, gia tăng tích tụ vốn để đầu tư vao quá trình sản xuất nhằm nâng cao lơi nhuận cho toàn bộ nền kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, tín dụng ngân hàng giữ một vai trò quan trọng thể hiện ở các mặt sau đây:
-Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục, đồng thời góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
-Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn đảm bảo tốt nhất yêu cầu nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn.
-Tín dụng ngân hàng góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hach toán kinh tế của các doanh ngiệp.
Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Như chúng ta biết, nông ngiệp nông thôn nước ta có một vai trò và vị trí quan trọng đặc biệt, vì vậy trông những năm gần đây, Đảng và chính phủ ta đã rất chú trọng tập trung đầu tư trong nông nghiệp nông thôn, đẩy mạnh CNH-HĐH trong nông thôn, nâng cao đời sống người dân đặc biệt là đối với các hộ nghèo đói (chủ yếu ở trong khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa), muốn làm những điều này Đảng và chính phủ ta đã có nhiều chính sách yêu đãi đối với các hộ đói nghèo, áp dụng các chính sách như: hỗ trợ các hộ nghèo đói về vốn thông qua hoạt động của các ngân hàng đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn mà cụ thể là ngân hàng phục vụ người nghèo. Đất nước ta đang từng ngày đổi mới, từng bước vươn lên hoà nhập cùng thế giới nhưng tỷ lệ nghèo đói ở nước ta còn cao cho nên vấn đề đâu tư phát triển nông nghiệp nông thôn đặc biệt là vấn đề giảm bớt tỷ lệ các hộ nghèo đói của nước ta là một vấn đề hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước ta. Chính vì vậy mà tín dụng ngân hàng có vai trò hêt sức quan trọng trong vấn đề giảm bớt tỷ lệ các hộ nghèo đói trong cả nước. Nhận thức đầy đủ vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn, tại Hội nghị lần thứ V khoá VII của Đảng đã chỉ rõ “Khai thác phát triển các nguồn tín dụng của nhà nước và nhân dân tạo điều kiện tăng tỷ lệ hộ nông dân được vay vốn sản xuất, ưu tiên cho các hộ nghèo, vung nghèo vay vốn để sản xuất”.
Một nền kinh tế không thể tăng trưởng và phát triển một cách bền vững, ổn định mỗi khi trong xã hội vẫn còn tồn tại tỷ lệ hộ nghèo đói khá cao. Do vậy phát triển nông nghiệp nông thôn để giải quyết vấn đề đói nghèo đã và đang trở thành một yêu cầu cấp bách không chỉ về mặt phương diện kinh tế mà còn cả về phương diện xã hội. Đầu năm 1998 Chính phủ quyết định xoá đói giảm nghèo là một trong 7 chương trình quốc gia. Việc tăng cường huy động vốn trong và ngoài nước. Đòi hỏi phải xây dựng và đề xuất những giải pháp hữu hiệu hơn để giải quyết giảm số hộ nghèo đói nhanh hơn tăng số hộ giàu và làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Chính vì vậy mà vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo là vô cùng quan trọng trong tình hình ngày nay.
5) Các nhân ố ảnh hưởng đến việc sản xuất của hộ nông dân ,để ngân hàng có hướng giải quyết hợp lý
5.1) Nhân tố về các yếu tố sản xuất .
Thứ nhất là đất đai.
Các HND sản xuất kinh doanh và thu hoạch các sản phẩm chủ yếu từ ruộng đất do đó đất đai có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sản xuất của kinh tế HND cả về số lượng lẫn chất lượng . Quy mô đất đai càng lớn càng lớn càng phản ánh rõ quy mô sản xuất kinh doanh của hộ và ngược lại.
Tuy nhiên quy mô đất đai bình quân mỗi hộ còn thấp đặc biệt là các hộ sản xuất hàng hoá cần nhiều đất để phát triển trang trại
Thứ hai là vốn .
Vấn đề vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp là đặc biệt quan trọng . Hiện nay phần lớn các HND ỏ các tỉnh miền núi còn nghèo vì vậy họ rất cần vốn để sản xuất . Vốn được coi nh nhân tố quyết định sự phát triển của kinh tế HND . Muốn vậy cần có biện pháp thích hợp đáp ứng mong muốn cho các HND để họ có vốn sản xuất cần có sự điều chỉnh về cường độ cho vay vốn và thời điểm vay vì sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ.
Thứ ba là lao động.
Quá trình sản xuất được thành lập trên cơ sở kết hợp các tư liệu sản xuất và con người . Vì vậy lao động có vai trò rất quan trọng với quá trình phát triển của kinh tế HND . Nếu không có con người thì không thể tiến hành sản xuất được . Nếu lao động được đào tạo có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng thành thạo, có khả năng hiệp tác và đạo đức nghề nghiệp thì quá trình sản xuất có hiệu quả hơn, năng suất lao động cao hơn ngược lại nếu lao động không có trình độ hoặc có trình độ chuyên môn thấp quá trình sản xuất sẽ kém hiệu quả .
5.2).Nhân tố về cơ sở hạ tầng .
Địa hình các tỉnh miền núi phía Bắc đa phần là đồi núi , do đó , cơ sở hạ tầng vùng này rất phức tạp và kém phát triển .
Đường giao thông còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng . Số đường được giải nhựa rất Ýt , đường nhỏ , hẹp ,nhiều dốc điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đi lại , vận chuyển hàng hoá của các HND . Nó làm cho quá trình tiêu thụ nông sản gặp nhiều khó khăn và hạn chế sự đầu tư của các thành phần kinh tế khác vào vùng này .
Hệ thống thuỷ lợi thiếu hệ thống mương máng nội đồng cũng làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất của các HND đặc biệt trong mùa khô nhiều nơi vùng cao khô ng có nước tưới làm nhiều diện tích gieo trồng bị hạn hán . Do thiếu kênh dẫn nước nội đồng nên các HND không chủ động được trong sản xuất , ảnh hưởng đến thời vụ gieo trồng làm cho kết quả sản xuất giảm .
Hệ thống điện , trường học , thông tin liên lạc còn yếu kém về nhiều mặt ảnh hưởng đến quá trình tiếp cận thông tin của các HND , chữa trị bệnh không kịp thời , tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cao , tỷ lệ trẻ em chưa được đến trường còn cao.
Vấn đề xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc cũng rất phức tạp do tập quán sinh hoạt của các dân tộc khác nhau . Đa phần các HND còn nghèo, đời sống khó khăn ,thu nhập thấp các hoạt động văn hoá xã hội không được quan tâm , các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng , sinh đẻ không có kế hoạch .
5.3). Nhân tố về chính sách vĩ mô.
Nhân tố này thể hiện sự tác động của Nhà nước đến sự phát triển của kinh tế HND . Nếu chính sách đúng, hợp lý tác động vào đúng trạng thái của kinh tế HND thì sẽ góp phần thúc đẩy , kích thích sự phát triển của kinh tế HND . Ngược lại , nếu chính sách không đúng , không hợp lý thì sẽ trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của kinh tế HND bao gồm :
+ Chính sách nhiều thành phần kinh tế : Đó là kinh tế Nhà nước , kinh tế tập thể ,kinh tế tư nhân , kinh tế hộ gia đình , kinh tế có nhân tố nước ngoài . Điều đó , nói lên kinh tế HND phát triển trong mối quan hệ hợp tác , liên doanh , liên kết với các thành phần kinh tế nhằm sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn . Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển
+ Chính sách đầu tư và hỗ trợ cho các tỉnh miền núi .
Với những điều kiện về sản xuất không được thuận lợi vì vậy sự ưu tiên đầu tư của Nhà nước cho các tỉnh miền núi có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát của kinh tế HND .Đầu tư trước hết vào việc xây dựng và cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông , điện , các cơ sở chế biến , đưa tiến bộ khoa hộc công nghệ vào sản xuất , chuyển đổi cơ cấu cây trồng , vật nuôi , phát triển các nghành nghề mới , khôi phục các làng nghề truyền thống . Hỗ trợ các tỉnh miền núi trong việc xoá đói , giảm nghèo .
+ Các chính sách liên quan khác nh chính sách thuế , chính sách giá cả , chính sách vốn…
Chúng ta chưa thực hiện nghiêm túc đướng lối đúng đắn đã được nêu trong các nghị quyết Đại hội và nhiều nghị quyết Trung ương: coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay.
Một số chính sách của Đảng và Nhà nước chậm đổi mới, chưa thông thoáng, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn và đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là các chính sách về đất đai, khoa học công nghệ, tín dụng, thị trường. Việc nghiên cứu vận dụng các kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới vào điều kiện của ta còn nhiều hạn chế. Đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp.
Trong điều hành chưa chú ý nắm bắt thực tiễn, không kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, uốn nắn sai lầm, lệch lạc trong thực hiện chủ trương, chính sách; chậm tổng kết kinh nghiệm và những mô hình mới, những nhân tố mới của quần chúng, của các đơn vị cơ sở. Kinh tế nhà nước chưa được củng cố để phát huy vai trò chủ đạo và hướng dẫn, hỗ trợ kinh tế hộ, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân. Công nghiệp, thương nghiệp chưa liên kết chặt chẽ nên chưa phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Luật đất đai có những quy định chưa phù hợp; việc thực hiện còn nhiều khuyết điểm và lúng túng.
Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn và yêu cầu tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa. Một số địa phương chưa xác định đúng tiềm năng, nội lực cần tập trung phát huy là ở nông nghiệp, nông thôn. Hệ thống quản lý, chỉ đạo nông nghiệp và phát triển nông thôn còn phân tán, hiệu lực thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
6) Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động của HND có thể phân biệt được các HND.
+ Kiểu HND hoàn toàn tự cấp không phản ứng với thị trường.
Mục tiêu của HND này là tối đa lợi Ých.Lîi Ých ở đây là sản phẩm cần để tiêu dùng trong gia đình. Người nông dân phải lao động để sản xuất ra lượng sản phẩm cho đến lúc không đủ sức để sản xuất nưã. Lao động nông nhàn (thời gian không lao động) cũng được coi nh một lợi Ých. Nhân tố ảnh hưởng nhất đến khả năng lao động của hộ là cấu trúc dân số của gia đình (tỷ lệ giữa tay làm và miệng ăn).
Hộ nông dân tự cấp hoạt động nh thế nào phụ thuộc vào các điều kiện sau:
+ Khả năng mở rộng diện tích (có thể tăng vụ) được hay không.
+ Có thị trường lao động hay không. Vì người nông dân có thể bán sức lao động để tăng thu nhập nếu có chi phí của lao động cao hơn.
+ Có thị trường vật tư hay không. Vì người nông dân phải bán một Ýt sản phẩm để mua vật tư cần thiết hay một số hàng tiêu dùng khác.
Kiểu hộ nông dân chủ yếu tự cấp có bán một phần sản lượng để đổi lấy hàng tiêu dùng. Kiểu hộ này có phản ứng Ýt nhiều với giá cả (chủ yếu giá vật tư).
Nh vậy, kiểu hộ này bắt đầu phản ứng với thị trường, tuy mục tiêu chủ yếu vẫn là tự cấp.
Kiểu hộ nông dân bán phần lớn sản lượng, phản ứng nhiều với giá thị trường.
Kiểu hộ nông dân hoàn toàn sản xuất hàng hoá có mục tiêu là lợi nhuận tối đa nh một xí nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Qua sự phân loại HND trên có thể thấy mục tiêu sản xuát của hộ quyết định sự lựa chọn sản phẩm kinh doanh, quyết định mức độ đầu tư, mức độ phản ứng với giá cả đầu tư, lao động và sản phẩm của thị trường.
Hiện nay ở nước ta vẫn tồn tại hai quan điểm về hộ nông dân. Quan điểm thứ nhất cho rằng các kiểu hộ là tự cấp , tự túc với mục tiêu chủ yếu là để tiêu dùng đó là các hộ sản xuất nhỏ. Kiểu hộ này chủ yếu có ở các tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc. Quan điểm thứ hai cho rằng một số hộ có khả năng sản xuất hàng hoá với mục tiêu lợi nhuận cao nhất nhưng do hạn chế về điều kiện sản xuất nên trình độ sản xuất v