Chuyên đề Xuất khẩu thủy sản Việt Nam – Thách thức & Cơ hội sau khi gia nhập WTO

Việt Nam có truyền thống lâu đời trong các hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Ngành thuỷ sản đóng góp hơn 3% GDP trong hơn mười năm qua và được xem là một trong những ngành có bước trưởng thành nhanh chóng nhất trong thập kỷ vừa rồi. Hiện nay, ngành thuỷ sản đang không ngừng tăng trưởng cả về số lượng và chất luợng. Ngoài ra, ngành thủy sản đang là ngành có thế mạnh về xuất khẩu mang về một lượng ngoại tệ lớn cho Việt Nam. Đặc biệt, năm 2007 Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại Thế Giới WTO – World Trade Organization. Ngành thuỷ sản đã bước đầu hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế và triển khai một số Hiệp định hợp tác với các Tổ chức quốc tế, khu vực và các nước. Bộ Thuỷ sản đang có gắng xây dựng Chiến lược Hợp tác quốc tế và Hội nhập kinh tế quốc tế ngành thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Để hiểu rõ hơn về xuất khẩu thủy sản Việt Nam, em đã chọn đề tài nghiên cứu cho chuyên đề Kinh Tế của mình là “Xuất khẩu thủy sản Việt Nam – Thách thức & Cơ hội sau khi gia nhập WTO”.

doc31 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xuất khẩu thủy sản Việt Nam – Thách thức & Cơ hội sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: Việt Nam có truyền thống lâu đời trong các hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Ngành thuỷ sản đóng góp hơn 3% GDP trong hơn mười năm qua và được xem là một trong những ngành có bước trưởng thành nhanh chóng nhất trong thập kỷ vừa rồi. Hiện nay, ngành thuỷ sản đang không ngừng tăng trưởng cả về số lượng và chất luợng. Ngoài ra, ngành thủy sản đang là ngành có thế mạnh về xuất khẩu mang về một lượng ngoại tệ lớn cho Việt Nam. Đặc biệt, năm 2007 Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại Thế Giới WTO – World Trade Organization. Ngành thuỷ sản đã bước đầu hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế và triển khai một số Hiệp định hợp tác với các Tổ chức quốc tế, khu vực và các nước. Bộ Thuỷ sản đang có gắng xây dựng Chiến lược Hợp tác quốc tế và Hội nhập kinh tế quốc tế ngành thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Để hiểu rõ hơn về xuất khẩu thủy sản Việt Nam, em đã chọn đề tài nghiên cứu cho chuyên đề Kinh Tế của mình là “Xuất khẩu thủy sản Việt Nam – Thách thức & Cơ hội sau khi gia nhập WTO”. II. Mục tiêu của đề tài: 1) Mục tiêu chung: Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy Việt Nam trong những năm qua (2003 – 2007). Từ đó, phân tích những lợi thế và nhận diện những thách thức trở ngại trong việc xuất khẩu thủy sản sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Trên cơ sở đó, đưa ra các chiến lược đẩy mạnh hoạt động thương mại xuất khẩu thủy sản Việt Nam càng phát triển hơn. 2) Mục tiêu cụ thể: - Nghiên cứu thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong những năm qua. - Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam. - Đề ra giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam. III. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập thông tin thứ cấp trên báo, tạp chí, internet, niên giám thống kê, cục thống kê. Các báo cáo tổng kết của Bộ Thủy sản. Báo cáo của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam VASEP. Phương pháp phân tích: Phương pháp mô tả. Phương pháp dự báo kinh tế. Phương pháp tần số đơn giản * Với từng mục tiêu cụ thể khác nhau, sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: Nghiên cứu thực trạng sản xuất, chế biến, xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong những năm qua: nghiên cứu nhân quả. Thu thập số liệu trong những năm gần đây rồi đưa ra các nhận xét. Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam: nghiên cứu ứng dụng, nhân quả. Đề ra giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam: phân tích định tính. IV. Phạm vi nghiên cứu: 1) Về không gian: Địa bàn nghiên cứu: Việt Nam. 2) Về thời gian: Số liệu sử dụng cho đề tài là số liệu thu thập từ 2003 – 12/2007. 3) Đối tựơng nghiên cứu: - Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Lý thuyết về xuất nhập khẩu: 1.1. Xuất nhập khẩu: Xuất khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng hóa cho nước ngoài. Nhập khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình mới được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại. Còn việc mua dịch vụ được tính vào mục cán cân phi thương mại. Ngoại thương (hay còn gọi là thương mại quốc tế) là quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia chủ yếu thông qua hoạt động xuất, nhập khẩu và các hoạt động gia công với nước ngoài. Ngoại thương giữ vị trí trung tâm trong nền kinh tế đối ngoại. Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ về mặt vật chất và tài chính, các quan hệ diễn ra không những trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong lĩnh vực khoa học – công nghệ có liên quan đến tất cả giai đoạn của quá trình sản xuất, giữa các quốc gia với nhau và giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế. 1.2. Xuất nhập khẩu thủy sản: Các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thủy sản là khi mà hàng hóa (các mặt hàng thủy sản: tôm, cá, mực …) được thực hiện mua bán từ quốc gia này sang quốc gia khác, từ phạm vi lãnh thổ này sang lãnh thổ khác. Ý nghĩa của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu: Đây là một hoạt động không thể thiếu ở các quốc gia bởi vì không một quốc gia nào có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân trong nước. Nguồn tài nguyên có hạn và mỗi quốc gia có một lợi thế riêng. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hằng năm mang về một lượng ngoại tệ lớn. Xu hướng của thế giới hiện nay là mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa các nước. 2. Một số quy định về xuất nhập khẩu thủy sản khi gia nhập vào WTO: Từ năm 2007, Việt Nam là thành viên của WTO, và sẽ phải thực hiện đúng lộ trình cắt giảm thuế theo như cam kết giữa Việt Nam và EU. Các hiệp định cơ bản của WTO gồm hiệp định về thương mại hàng hoá gồm cả hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT, 1994) và các hiệp định liên quan khác; hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS); hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương  mại (TRIPs). WTO thực hiện chức năng của mình trong việc giám sát việc thực hiện các Hiệp định này, đàm phán thúc đẩy tự do hoá thương mại, tạo cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại, tiến hành rà soát định kỳ chính sách thương mại của các nước thành viên.       Một số quy định về thuế xuất nhập khẩu như sau: Miễn và giảm thuế nhập khẩu không dựa trên thành tích xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu hay yêu cầu tỷ lệ nội địa hoá mà chỉ đảm bảo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc đối với hàng nhập khẩu. Thuế suất ưu đãi chỉ áp dụng cho hàng nhập có xuất xứ từ nước, hoặc khối nước có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Các điều kiện để được áp dụng thuế suất ưu đãi: - Hàng nhập khẩu có giấy chứng nhận xuất xứ từ nước hoặc khối nước đã có thoả thuận về đối xử tối hụê quốc trong quan hệ thương mại với VN. - Nước hoặc khối nước đó phải nằm trong danh sách các nước hoặc khối nước do Bộ thương mại thông báo đã có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất ưu đãi đặc biệt: là thuế suất được áp dụng cho hàng NK có xuất xứ từ nước hoặc khối nước mà Việt Nam và nước, hoặc khối nước đó đã thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế NK theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh quan thuế, hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác. 3. Những lợi thế của ngành thủy sản Việt Nam: 3.1. Lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở Việt Nam: 3.1.1. Vị trí địa lý: Việt Nam là dải đất cong hình chữ S, chạy dọc phía Đông bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á. Phía Đông, Nam và Tây Nam giáp biển Thái Bình Dương; phía Tây và phía Bắc gắn liền với lục địa châu Á. Phần đất liền của Việt Nam trải dài từ 23o23' đến 08o02' vĩ độ Bắc và chiều ngang từ 102o08' đến 109o28' kinh độ Đông. Chiều dài tính theo đường thẳng trong đất liền từ Bắc xuống Nam khoảng 1.650 km. Chiều ngang từ Đông sang Tây nơi rộng nhất trên đất liền là 600 km, nơi hẹp nhất 50 km. Việt Nam có biên giới đất liền dài 3.730 km. Phía Bắc giáp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với chiều dài biên giới 1.150 km. Phía Tây giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trên chiều dài biên giới 1.650 km và giáp Vương quốc Cămpuchia - 930 km. Qua biển Đông và vịnh Thái Lan là Cộng hòa Philippin, Cộng hòa Inđônêxia, Cộng hòa Singapo, Cộng hòa Brunây và Liên bang Malaixia. Ngoài ra, có bờ biển dài 3260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2. Vùng biển nước ta có nguồn lợi hải sản khá phong phú, cho phép khai thác hàng năm 1,2 – 1,4 triệu tấn. Nước ta có nhiều ngư trường, trong đó 4 ngư trường trọng điểm là : ngư trường Minh Hải – Kiên Giang, ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh và ngư trường quần đảo Hoàng Sa - quần đảo Trường Sa. 3.1.2. Điều kiện tự nhiên: a) Khí hậu: Do tính chất dài và hẹp của lãnh thổ, Việt Nam mang đặc tính của một bán đảo, ảnh hưởng của biển len lỏi đến khắp nơi. Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới nên khí hậu chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của chế độ gió mùa châu Á (chủ yếu là gió mùa Đông Bắc và Đông Nam). Lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1.500 - 2.000 mm. Độ ẩm trên dưới 85%. Chế độ gió mùa cũng làm cho tính chất nhiệt đới ẩm của thiên nhiên Việt Nam thay đổi. Nhìn chung, Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh, ít mưa. Riêng khí hậu của các tỉnh phía Bắc (từ đèo Hải Vân trở ra bắc) thay đổi theo bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Do ảnh hưởng gió mùa, hơn nữa sự phức tạp về địa hình nên khí hậu của Việt Nam luôn luôn thay đổi trong năm, từ giữa năm này với năm khác và giữa nơi này với nơi khác (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên cao). b) Địa hình: Đại bộ phận lãnh thổ được bao trùm bởi đồi núi, có nơi núi đâm ra sát biển, thậm chí còn lan ra biển. Hướng núi chủ yếu là Tây Bắc - Đông Nam. Núi không cao nhưng hiểm trở, chia cắt địa hình thành nhiều vùng với những đặc thù riêng. Địa hình Bắc Bộ giống như chiếc rẻ quạt, ba phía Tây, Bắc và Đông đều là đồi núi, phía Nam là bờ biển và ở giữa là đồng bằng. Địa hình Trung Bộ chạy dài và hẹp; đồi núi, đồng bằng và bờ biển xâm nhập lẫn nhau. Địa hình Nam Bộ ít phức tạp hơn và tương đối bằng phẳng. Nhìn chung, các vùng đồng bằng ven biển đều có diện tích không lớn. c) Biển: Việt Nam có ba mặt giáp biển, đông và nam giáp biển Đông (thuộc Thái Bình Dương) mà phần ăn sâu vào Việt Nam là vịnh Bắc Bộ, Tây nam giáp vịnh Thái Lan. Bờ biển Việt Nam trải dài hơn 3.260 km, uốn lượn - chỗ nhô ra tạo nên bán đảo nhỏ, chỗ vòng lại hình thành vùng vịnh và cảng lớn. Trung bình khoảng 20 km chiều dài bờ biển có một cửa sông thông ra biển. Các cửa sông này chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ triều khá phức tạp. Ngoài những con sông chảy trực tiếp vào biển, có một số sông chảy qua các đầm phá lớn như phá Tam Giang, Cầu Hai, Lăng Cô, Ô Loan, Thị Nại. d) Sông ngòi: Trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 2.860 sông ngòi lớn nhỏ, nhìn chung chảy xiết, do vậy thường làm xói mòn địa hình. Việt Nam có nhiều hồ tự nhiên như Hồ Tây (đại diện cho hồ miền đồng bằng); Biển Hồ, Hồ Ba Bể, Hồ Lắk (đại diện cho hồ miền núi). Các hồ đó có mực nước quanh năm ổn định, chu trình vật chất khép kín tự có trong hồ là chính. Diện tích các hồ tự nhiên ở Việt Nam là 20.000 ha. Việt Nam có rất nhiều hồ chứa cỡ trung bình và cỡ nhỏ (hiện chưa kiểm kê hết), một số hồ chứa lớn là Thác Bà, Hoà Bình (ở miền Bắc), Dầu Tiếng, Trị An, Thác Mơ, Sông Hinh (ở miền Nam). Diện tích hồ chứa trên 180 nghìn ha. Tuy nhiên, với vai trò quan trọng trong công tác thuỷ lợi, thuỷ điện và phân lũ, hiện nay nhiều hồ chứa mới đang tiếp tục được xây dựng. e) Đảo và quần đảo: Việt Nam là một quốc gia có nhiều đảo và quần đảo. Hệ thống đảo ven bờ gồm có 2.773 hòn đảo lớn nhỏ diện tích từ 0,001 km2 đến 100 km2, diện tích tổng cộng lên đến 1.720 km2. Về mặt phân bố, 83,7% số đảo ở ven biển tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi tập trung thứ hai là các tỉnh Kiên Giang và Cà Mau trên vịnh Thái Lan. Có tới gần 1.300 hòn đảo chưa có tên, vì chúng có kích thước quá nhỏ. Khoảng cách giữa đất liền và đảo cũng rất khác nhau: đảo Cái Bàu chỉ cách đất liền một rạch triều; trong khi đảo Bạch Long Vĩ cách Hải Phòng tới 135 km; đảo Hòn Hải cách Phan Thiết tới gần 155 km; đảo Thổ Chu cách cửa Ông Đốc (Kiên Giang) tới 146 km; quần đảo Hoàng Sa nằm cách Đà Nẵng tới 350 km và quần đảo Trường Sa nằm cách vịnh Cam Ranh hơn 450 km. Các đảo và quần đảo của Việt Nam có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế và quân sự. 3.2. Lợi thế về lao động: Việt Nam là quốc gia có dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động trên 50%. Số người biết chữ (10 tuổi trở lên) chiếm tỷ lệ rất cao - 91%. Nhận thức của người Việt Nam tương đối nhanh nhạy và linh hoạt, vì vậy, với thời gian đào tạo ngắn nhưng người Việt Nam có khả năng tiếp thu được kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, nhanh chóng đảm nhận nhiệm vụ mới. Dân số Việt Nam năm 2003 là 80,9 triệu người, trong đó nữ 41,15 triệu người, chiếm 50,86% tổng số, nam - 39,75 triệu người, chiếm 49,14% tổng số. Trong đó có 46,2 triệu người trong độ tuổi lao động (có 5,7 triệu người thất nghiệp). Và con số này tăng lên đến năm 2006 là 48,3 triệu người (có 4,82 triệu người thất nghiệp). ( Nguồn từ Niên giám thống kê 2006). Cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể như sau: Tổng số lao động xã hội 1990 1995 2000 2005 Trong ngành nông, lâm và ngư nghiệp 73,00% 71,10% 68,20% 56,80% Trong ngành công nghiệp 11,24% 11,40% 12,10% 17,90% Trong các ngành dịch vụ 15,56% 17,50% 19,70% 25,30% Lao động trong khai thác hải sản: Năm 2004, lực lượng lao động khai thác hải sản xấp xỉ 600.000 người. Phần lớn đều có kinh nghiệm đi biển, thành thạo nghề, chịu được sóng gió. Tuy nhiên, thanh niên vùng ven biển đang có xu hướng không muốn theo nghề khai thác, vì cường độ lao động cao, năng suất đánh bắt thấp và thu nhập giảm. Việc đẩy mạnh khai thác xa bờ đang gặp khó khăn về nguồn nhân lực. Đội ngũ thuyền trưởng, thuỷ thủ giỏi, có trình độ và kỹ thuật khai thác xa bờ rất thiếu, nhất là các tỉnh Bắc Bộ và Nam Bộ, dẫn tới nhiều nơi tàu đã đóng xong nhưng không tuyển được người có đủ trình độ ra khơi. 3.3. Vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân: Ngành Thuỷ sản Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước. Quy mô của Ngành Thuỷ sản ngày càng mở rộng và vai trò của Ngành Thuỷ sản cũng tăng lên không ngừng trong nền kinh tế quốc dân. Từ cuối thập kỷ 80 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP của Ngành Thuỷ sản cao hơn các ngành kinh tế khác cả về trị số tuyệt đối và tương đối, đặc biệt so với ngành có quan hệ gần gũi nhất là nông nghiệp. Ngành Thuỷ sản là một ngành kinh tế kĩ thuật đặc thù bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động mang những tính chất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, cơ cấu thành một hệ thống thống nhất có liên quan chặt chẽ và hữu cơ với nhau. Trong khi các ngành khai thác, đóng sửa tàu thuyền cá, sản xuất ngư lưới cụ, các thiết bị chế biến và bảo quản thuỷ sản trực thuộc công nghiệp nhóm A, ngành chế biến thuỷ sản thuộc nhóm công nghiệp B, ngành thương mại và nhiều hoạt động dịch vụ hậu cần như cung cấp vật tư và chuyên chở đặc dụng thuộc lĩnh vực dịch vụ thì nuôi trồng thuỷ sản lại mang nhiều đặc tính của ngành nông nghiệp. Vì vai trò ngày càng quan trọng của Ngành Thuỷ sản trong sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm trong nước và thu ngoại tệ, từ những năm cuối của thập kỉ 90, Chính phủ đã có những chú ý trong qui hoạch hệ thống thuỷ lợi để không những phục vụ tốt cho phát triển nông nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển mạnh về nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt đối với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Trên thế giới, ước tính có khoảng 150 triệu người sống phụ thuộc hoàn toàn hay một phần vào Ngành Thuỷ sản. Ngành Thuỷ sản được coi là ngành có thể tạo ra nguồn ngoại tệ lớn cho nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đã trở thành hoạt động có vị trí quan trọng hàng nhất nhì trong nền kinh tế ngoại thương Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu vẫn gia tăng hàng năm và năm 2004 đạt gần 2,4 tỷ USD, vượt 20% so với kế hoạch, đưa chế biến thuỷ sản trở thành một ngành công nghiệp hiện đại, đủ năng lực hội nhập, cạnh tranh quốc tế và dành vị trí thứ 10 trong số nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu trên thế giới. Vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân : a) Cung cấp thực phẩm, tạo nguồn dinh dưỡng cho mọi người dân Việt Nam 50% sản lượng đánh bắt hải sản ở vùng biển Bắc Bộ, Trung Bộ và 40% sản lượng đánh bắt ở vùng biển Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ được dùng làm thực phẩm cho nhu cầu của người dân Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển rộng khắp, tới tận các vùng sâu vùng xa, góp phần chuyển đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn của người dân Việt Nam, cung cấp nguồn dinh dưỡng dồi dào. Từ các vùng đồng bằng đến trung du miền núi, tất cả các ao hồ nhỏ đều được sử dụng triệt để cho các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản. Trong thời gian tới, các mặt hàng thủy sản sẽ ngày càng có vị trí cao trong tiêu thụ thực phẩm của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. b) Đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm, cung cấp các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp. Ở tầm vĩ mô, dưới giác độ ngành kinh tế quốc dân, Ngành Thuỷ sản đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, đáp ứng được yêu cầu cụ thể là tăng nhiều đạm và vitamin cho thức ăn. Có thể nói Ngành Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho người dân, không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng ven biển. Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001 đến năm 2004, công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt động trình diễn các mô hình khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo làm ăn. Hiện tại, mô hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản công ăn việc làm cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các vùng, nhất là lao động nông nhàn ở các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ. Nghề khai thác thuỷ sản ở sông Cửu Long được duy trì đã tạo công ăn việc làm cho 48.000 lao động ở 249 xã ven sông. c) Xoá đói giảm nghèo Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc phát triển các mô hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp nguồn dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói giảm nghèo. Tại các vùng duyên hải, từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển mạnh từ  phương thức nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh, thậm chí nhiều nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi công nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản xuất hàng hoá lớn đã hình thành, một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản.  Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ chứa cũng đã phát triển, hoạt động này luôn được gắn kết với các chương trình phát triển trung du miền núi, các chính sách xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa. d) Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền kinh tế biển. Nếu như trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng của biển  để mở rộng đất đai canh tác là  định hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thì hiện nay việc tiến ra biển, kéo biển lại gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một nền kinh tế công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ điện đã được xây dựng, khiến nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào vùng cửa sông, ven biển. Đối với nền canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm hoạ, nhưng với nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một tiềm năng mới, vì hoạt động nuôi trồng thuỷ sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng chục lần hoạt động canh tác lúa nước. Có thể nói nuôi trồng thủy sản đã phát triển với tốc độ nhanh, thu được hiệu quả kinh tế - xã hội đáng kể, từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nông dân. Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng trũng phát triển mạnh mẽ. Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một trong những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu nhập cho người lao động và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. e) Tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả sử dụng đất đai Ao hồ nhỏ là một thế mạnh của nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nông thôn Việt Nam. Người nông dân sử dụng ao hồ nhỏ
Tài liệu liên quan