Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh, thực trạng và giải pháp

Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội cung cấp nhiều loại sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội, là thị trường rộng lớn của nền kinh tế, cung cấp nguồn nhân lực và tạo nên tích luỹ ban đầu cho sự ngiệp phát triển của đất nước. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, nông nghịêp đóng vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế. Hầu hết các nước phải dựa vào sản xuất nông nghiệp để tạo sản lượng lương thực, thực phẩm cần thiết đủ để nuôi sống dân tộc mình và tạo nền tảng cho các ngành, các hoạt động kinh tế khác phát triển. Việt Nam là một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp, trên 70% dân số sống ở nông thôn và 56% lao động xã hội làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, sáng tạo ra 68% tổng giá trị kinh tế nông thôn, năng suất khai thác ruộng đất và năng suất lao động còn thấp Để giải quyết những vấn đề này thì thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng với nước ta. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm tạo dựng một ngành nông nghiệp có cơ cấu kinh tế hợp lý, qua đó phát huy mọi tiềm năng sản xuất, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho người nông dân. Do đó, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên phạm vi cả nước cũng như với từng địa phương là rất cần thiết.

doc107 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2707 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của khoá luận Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội cung cấp nhiều loại sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội, là thị trường rộng lớn của nền kinh tế, cung cấp nguồn nhân lực và tạo nên tích luỹ ban đầu cho sự ngiệp phát triển của đất nước. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, nông nghịêp đóng vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế. Hầu hết các nước phải dựa vào sản xuất nông nghiệp để tạo sản lượng lương thực, thực phẩm cần thiết đủ để nuôi sống dân tộc mình và tạo nền tảng cho các ngành, các hoạt động kinh tế khác phát triển. Việt Nam là một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp, trên 70% dân số sống ở nông thôn và 56% lao động xã hội làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, sáng tạo ra 68% tổng giá trị kinh tế nông thôn, năng suất khai thác ruộng đất và năng suất lao động còn thấp… Để giải quyết những vấn đề này thì thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng với nước ta. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm tạo dựng một ngành nông nghiệp có cơ cấu kinh tế hợp lý, qua đó phát huy mọi tiềm năng sản xuất, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho người nông dân. Do đó, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên phạm vi cả nước cũng như với từng địa phương là rất cần thiết. Yên Hưng là một huyện thuần nông thuộc tỉnh Quảng Ninh với trên 89% dân cư sống ở nông thôn và 75,7% lao động nông nghiệp. Đời sống của nông dân còn khó khăn, thu nhập thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn trên 6%. Trong những năm qua, vấn đề tăng cường quản lý Nhà nước để phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện luôn được quan tâm và từng bước hoàn thiện. Tuy nhiên, thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện Yên Hưng còn chậm, cơ cấu nông nghiệp còn bất hợp lý, trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng cao, tình trạng độc canh cây lương thực vẫn tồn tại trong khi đó nhiều tiềm năng phát triển chăn nuôi và thuỷ sản chưa được khai thác tốt. Thực trạng này đòi hỏi phải có giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện Yên Hưng một cách hợp lý. Từ những vấn đề cấp thiết nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh, thực trạng và giải pháp” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tổng hợp một cách có hệ thống quan điểm lý luận về vai trò, nội dung quản lý Nhà nước đối với nông nghiệp, đi sâu phân tích đánh giá trung thực, khách quan thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện Yên Hưng trong thời gian qua. Từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện một cách hiệu quả. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: là một số chính sách kinh tế, pháp luật tác động trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện. - Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp, tác giả đề cập và nghiên cứu vai trò quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại địa phương. 4. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành khoá luận của mình, tác giả sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp so sánh; - Phương pháp phân tích tổng hợp số liệu thống kê; - Phương pháp hệ thống hoá. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp lấy ý kiến của một số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tại huyện Yên Hưng. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, khoá luận bao gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung. Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh. Chương III: Quan điểm, mục tiêu và một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 1.1. Những vấn đề chung về nông nghiệp 1.1.1. Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân Nông nghiệp là ngành sản xuất gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của xã hội loài người. Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng cấu thành nền kinh tế quốc dân. Mọi quốc gia trên thế giới đều có những chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp. Ngay cả những nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật, Pháp… sản xuất nông nghiệp cũng luôn được chú trọng và thực tế cho thấy các sản phẩm nông nghiệp đã đóng góp rất nhiều vào kim ngạch xuất khẩu. Ở nước ta, sản xuất nông nghiệp đã có từ xa xưa và được xem là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Đến nay, nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với tỷ trọng 21% GDP và hơn 56% lao động xã hội đang hoạt động trong lĩnh vực nông ngiệp. Sản xuất nông nghiệp đang từng bước chuyển từ nền sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn. Vai trò của nông nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân được thể hiện ở một số điểm sau: - Nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng trong quá trình sản xuất tư liệu tiêu dùng thiết yếu cho con người (lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp) mà không một ngành nào có thể thay thế được. [4] - Nông nghiệp có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, góp phần đáng kể vào tích luỹ ban đầu cho sự nghiệp phát triển đất nước, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển. Tích luỹ trong nông nghiệp được thực hiện trực tiếp thông qua thuế sử dụng đất nông nghiệp. Nguồn thu này tuy không lớn nhưng là nguồn ổn định và là nguồn thu chủ yếu có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của địa phương trong thời kỳ công nghiệp hoá. - Nông nghiệp có ảnh hưởng đến nhiều ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là ngành công nghiệp. Sự phát triển ổn định, vững chắc của nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với ngành công nghiệp, dịch vụ và toàn nền kinh tế quốc dân. Việc giải quyết đủ lương thực cho nhu cầu trong nước và dư thừa để xuất khẩu được coi là nền tảng quan trọng nhất cho sự ổn định nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngoài lương thực và thực phẩm, nông nghiệp còn cung cấp nhiều loại nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến nông sản. Sự phát triển của công nghiệp chế biến, ở mức độ rất lớn phụ thuộc vào quy mô và tốc độ của sản xuất nông nghiệp. Tính phụ thuộc này sẽ càng tăng lên khi nhu cầu sản xuất và xuất khẩu nông sản với kỹ thuật cao tăng lên. - Nông nghiệp, nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm cho nền kinh tế quốc dân. - Nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực cho các ngành kinh tế xã hội phát triển. Quá trình phát triển kinh tế ở hầu hết các nước đều gắn liền với sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta đòi hỏi nguồn lao động không ngừng được bổ sung từ khu vực nông nghiệp. - Nông nghiệp phát triển tạo điều kiện để chuyển các yếu tố sản xuất sang khu vực phi nông nghiệp. 1.1.2. Những đặc thù của sản xuất nông nghiệp So với các ngành kinh tế khác, sản xuất nông nghiệp có những nét đặc thù riêng biệt mà trong quản lý Nhà nước cần phải quan tâm. - Sản xuất nông nghiệp chịu tác động và chi phối mạnh của các quy luật tự nhiên và các điều kiện cụ thể như đất đai, khí hậu, sinh vật, thời tiết. - Lao động nông nghiệp của con người phụ thuộc vào quá trình tăng trưởng của sinh vật, cây con trong nông nghiệp có quy luật vận động riêng. Đặc điểm đó có vai trò quyết định đến năng suất lao động trong nông nghiệp. - Thời gian lao động và thời gian sản xuất không ăn khớp, tính thời vụ cao, tiềm năng lao động trong nông nghiệp còn rất lớn, nhất là những vùng chậm phát triển. - Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản hiện ra trên một không gian rộng lớn và thời gian dài. - Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng không thể thay thế được trong hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên, diện tích đất sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm do tác động của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá. - Chủ thể chính của sản xuất nông nghiệp là nông dân với trình độ văn hoá, khoa học và kỹ thuật rất thấp. Ngoài những đặc thù trên, sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam còn có đặc điểm sau: - Việt Nam là một nước đất hẹp, người đông, bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người thấp (0.11ha/ người). - Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm, tạo điều kiện thuận lợi cho các loại cây con phát triển. Khí hậu Việt Nam lại có sự phân hoá theo độ cao và phân hoá theo hướng Bắc – Nam tạo cơ hội để phát triển nhiều loại cây trồng vật nuôi khác nhau (kể cả những loại cây ôn đới). Tuy nhiên, bên cạnh đó Việt Nam cũng là nơi gánh chịu nhiều thiên tai, điều đó cũng tác động không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp. - Sản xuất nông nghiệp mang nặng thế độc canh lúa nước. Và trồng trọt vẫn chiếm ưu thế trong sản xuât nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp tồn tại bất hợp lý trong thời gian dài. - Nền nông nghiệp Việt Nam đang chuyển dần từ nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn gắn với thị trường theo xu hướng hội nhập quốc tế. 1.1.3. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta gắn với thị trường và điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng và của cả nước Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với thị trường là yêu cầu cần thiết đối với sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước bởi những lý do sau: Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của nông nghiệp đối với đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Trong điều kiện thế giới có nhiều biến động phức tạp, ở hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến phát triển nông nghiệp vì đây là lĩnh vực rộng lớn, là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và hàng hoá xuất khẩu, là nguồn tích luỹ cho công nghiệp hoá, nguồn cung cấp nhân lực và là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho công nghiệp và dịch vụ. Có thể nói sự phát triển của nông nghiệp gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Thứ hai, từ thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta. Trong những năm gần đây nông nghiệp nước ta đạt được những thành tựu nổi bật, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên kinh tế nông nghiệp vẫn còn những hạn chế: - Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tuy có chuyển biến nhưng còn rất chậm, kinh tế nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh cây lương thực, tự cấp tự túc là chính, sản xuất hàng hoá phát triển chậm, năng suất đất đai, năng suất lao động, thu nhập và đời sống nông dân còn thấp. Chất lượng và giá cả nông sản xuất khẩu thấp, thị trường tiêu thụ chưa ổn định. - Nhiều vấn đề xã hội ở nông thôn, nhất là đời sống của cư dân nông nghiệp đang đòi hỏi bức xúc phải giải quyết, trong đó nổi bật là khoảng cách về thu nhập và đời sống giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi và miền xuôi, giữa người nghèo và người giàu đang có xu hướng mở rộng; lao động nông nghiệp dư thừa, thiếu việc làm, thu nhập của nông dân thấp, cuộc sống còn nhiều khó khăn… - Việc bảo vệ môi trường sinh thái trong nông nghiệp còn nhiều hạn chế như rừng tiếp tục giảm, đất đai bị xói mòn, ô nhiễm môi trường do sử dụng nhiều hoá chất độc hại chưa giảm. Để khắc phục những hạn chế trên, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển thì yêu cầu cấp thiết là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Thứ ba, từ yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đây là một nhiệm vụ trọng tâm trước mắt và lâu dài của Nhà nước ta “nhằm xây dựng và phát triển nền nông nghiệp bền vững, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao, đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông nghiệp được nâng lên, đưa nông nghiệp nông thôn trở thành giàu đẹp, tiến bộ, văn minh hiện đại”. Thứ tư, từ yêu cầu đòi hỏi của thị trường trong nước và thế giới. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình mở cửa và hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, do vậy để nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá, đa dạng hoá sản phẩm và thích ứng với sự biến động của quan hệ cung cầu trên thị trường trong và ngoài nước đòi hỏi chúng ta phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm đáp ứng những nhu cầu của thị trường. 1.2. Những vấn đề chung về cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 1.2.1. Cơ cấu kinh tế Sự phát triển sản xuất dẫn đến quá trình phân công lao động. Tuỳ vào tính chất sản phẩm, chuyên môn kỹ thuật mà chia thành từng ngành, lĩnh vực khác nhau. Nhưng trong nền sản xuất, các ngành, các lĩnh vực này không thể hoạt động một cách độc lập mà phải có sự tương tác qua lại lẫn nhau, hỗ trợ nhau, tuỳ thuộc vào nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Từ đó đòi hỏi nhận thức đầy đủ về mối quan hệ giữa các bộ phận. Sự phân công và mối quan hệ hợp tác trong hệ thống thống nhất là tiền đề cho quá trình hình thành cơ cấu kinh tế. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Một cách khái quát, cơ cấu kinh tế thường được hiểu là tổng thể các ngành, các lĩnh vực, các bộ phận của hệ thống kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng trong mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định. [13] - Cơ cấu kinh tế được phân chia thành: + Cơ cấu kinh tế ngành: Phản ánh tỷ trọng mối quan hệ giữa các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Thông thường khi xác định cơ cấu kinh tế ngành người ta phân chia thành 3 ngành chính là nông nghiệp, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Mỗi ngành lại phân chia thành những phân hệ nhỏ khác nhau. Sự biến đổi tỷ trọng của 3 ngành này tạo nên cơ cấu kinh tế trong những thời kỳ phát triển nhất định. + Cơ cấu phân theo thành phần kinh tế: Phản ánh mối quan hệ, tỷ trọng giá trị đóng góp của các thành phần kinh tế. Có thể phân chia các thành phần kinh tế thành 2 khu vực lớn là khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Nhà nước, hoặc cũng có thể phân chia một cách cụ thể hơn. Ở nước ta, nếu xét theo thành phần kinh tế thì cơ cấu kinh tế bao gồm 6 bộ phận: Thành phần kinh tế Nhà nước; Thành phần kinh tế tập thể; Thành phần kinh tế tư nhân; Thành phần kinh tế hộ gia đình; Thành phần kinh tế liên doanh, liên kết; Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. + Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ: Phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất. Ở nước ta, cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ được phân chia dựa vào điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất và trình độ phát triển của các vùng. Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan phản ánh trình độ phát triển của xã hội và các điều kiện phát triển của một quốc gia. Sự tác động từ chiến lược phát triển kinh tế hay sự quản lý của Nhà nước có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong một thời gian nhất định chứ không thể làm thay đổi được hoàn toàn nó. Mặt khác, mỗi cơ cấu kinh tế lại mang tính lịch sử xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế được hình thành khi quan hệ giữa các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế được thiết lập một cách cân đối và sự phân công lao động diễn ra một cách hợp lý. Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu hướng phổ biến ở mọi quốc gia. Song mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất mở rộng ở mỗi giai đoạn lịch sử, ở mỗi quốc gia lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan hệ sản xuất, đặc trưng văn hoá xã hội và bởi các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc. Các nước có hình thái kinh tế giống nhau song luôn có sự khác nhau trong việc hình thành cơ cấu kinh tế bởi vì điều kiện kinh tế – xã hội, chiến lược phát triển của mỗi nước có sự khác nhau. Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách hợp lý khi chủ thể quản lý Nhà nước có khả năng nắm bắt các quy luật khách quan, đánh giá đúng nguồn lực trong nước và nước ngoài để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình hình thành cơ cấu kinh tế. Nhưng sự tác động này không mang tính áp đặt duy ý chí mà là sự tác động mang tính định hướng. - Xu hướng vận động của cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế luôn vận động nhưng là sự vận động trong mối quan hệ cân đối ổn định. Các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế luôn biến đổi, phá vỡ thế cân bằng và lại được điều chỉnh để tạo ra sự cân đối ổn định. Xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới là tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Nói như vậy có nghĩa là về giá trị sản lượng tất cả các ngành đều phải tăng lên để đáp ứng nhu cầu của con người và sự gia tăng dân số. Song về cơ cấu tỷ trọng giữa các bộ phận phải có sự thay đổi nghĩa là sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ sẽ nhanh hơn sự phát triển của ngành nông nghiệp. Hiện nay ở các nước trên thế giới, quá trình CNH, HĐH đã giúp các nước này sản xuất ra một khối lượng hàng hoá tương đối lớn vì vậy trong cơ cấu kinh tế của họ các ngành sản xuất như nông nghiệp và công nghiệp có xu hướng giảm mạnh, trong khi đó các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân lại tăng lên nhanh chóng. Còn ở nước ta, do đang trong quá trình CNH, HĐH nên các ngành công nghiệp – xây dựng, dịch vụ cần phải tăng nhanh hơn nữa để cơ bản xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Riêng trong ngành nông nghiệp, vừa phải giảm tỷ trọng của ngành trong nền kinh tế, vừa thay đổi cơ cấu bên trong của ngành theo hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi. 1.2.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất được hình thành sớm nhất trong lịch sử phát triển kinh tế của nhân loại. Vì vậy, nó luôn có vai trò quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế quốc dân của hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Cho nên phát triển nông nghiệp là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nước ta hiện nay. Theo phân ngành kinh tế quốc dân của quốc tế cũng như của nước ta, nền kinh tế quốc dân được chia thành 3 khu vực chính: - Khu vực I: bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. - Khu vực II: gồm công nghiệp và xây dựng. - Khu vực III: gồm tất cả các ngành dịch vụ phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Từ đó cho thấy, nông nghiệp là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống nền kinh tế quốc dân. Nhưng đồng thời bản thân nông nghiệp cũng là một hệ thống nhỏ được cấu thành bởi các bộ phận khác nằm trong tổng thể hệ thống kinh tế quốc dân. Quá trình phát triển dẫn đến sự thay đổi của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế nói chung, đòi hỏi bản thân ngành nông nghiệp cũng phải có sự chuyển đổi phù hợp với các điều kiện và xu thế phát triển chung. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là thuật ngữ chỉ mối quan hệ hợp thành của các sản phẩm nông nghiệp tuỳ theo mục tiêu sản xuất của con người ở từng địa bàn cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp thường được nghiên cứu theo những nội dung cơ bản sau: Một là, cơ cấu kinh tế – kỹ thuật của nông nghiệp theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp: - Ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là tổ hợp các ngành gắn liền với quá trình sinh học gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Khi phân tích đánh giá cơ cấu kinh tế thì tiêu chí, cơ cấu ngành thường được xem trọng nhất bởi vì nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động xã hội càng sâu sắc, tỷ mỉ thì càng có nhiều ngành kinh tế hình thành và phát triển đa dạng khác nhau. Ở nước ta cho đến nay, về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp cho nên sự phát triển của nó giữ vai trò quyết định trong kinh tế nông thôn, đồng thời là một trong những ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, nó vừa chịu sự chi phối của nền kinh tế quốc dân vừa gắn bó chặt chẽ với các ngành khác, vừa phản ánh những nét riêng biệt mang tính đặc thù của một ngành mà đối tượng sản xuất là những cơ thể sống. - Ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹp): bao gồm trồng trọt và chăn nuôi. Trong trồng trọt được phân ra trồng cây lư
Tài liệu liên quan