Cơ sở của sự hình thành và phát triển chủ nghĩa duy vật nhân văn

Để đưa đất nước phát triển lên giàu mạnh và văn minh, đi qua công nghiệp hóa hiện đại hóa, nền kinh tế thị trường, nền văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải xây dựng một tầm nhìn triết học và một nền triết học Việt Nam hiện đại. Có thể trọng tâm của việc xây dựng đó là tập trung vào việc phát triển triết học về con người và triết học về sự phát triển xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới của thời đại kết hợp được tính nhân bản và tính khoa học trong tư duy triết học của con người Việt Nam hiện đại, tránh được những sự thiên lệch cực đoan mà những dân tộc đi trước đã vấp phải.

docx17 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở của sự hình thành và phát triển chủ nghĩa duy vật nhân văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cơ sở của sự hình thành và phát triển chủ nghĩa Duy vật Nhân văn Để đưa đất nước phát triển lên giàu mạnh và văn minh, đi qua công nghiệp hóa hiện đại hóa, nền kinh tế thị trường, nền văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải xây dựng một tầm nhìn triết học và một nền triết học Việt Nam hiện đại. Có thể trọng tâm của việc xây dựng đó là tập trung vào việc phát triển triết học về con người và triết học về sự phát triển xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới của thời đại kết hợp được tính nhân bản và tính khoa học trong tư duy triết học của con người Việt Nam hiện đại, tránh được những sự thiên lệch cực đoan mà những dân tộc đi trước đã vấp phải. 1- Những vấn đề về nguồn gốc của sự xuất hiện triết học mới và sự phát triển của triết học ở nước ta hiện nay Triết học là một ngành tri thức tổng quát với tư cách là hạt nhân của thế giới quan rất sâu sắc của nhân loại và cũng là một hình thái ý thức của xã hội có lịch sử phát triển khá lâu đời, nhưng lại không có sự đồng đều ở các dân tộc khác nhau và ở các thời điểm khác nhau. Chẳng hạn, có một số dân tộc có một nền triết học phát triển rực rỡ từ cổ xưa ví dụ như Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp và La Mã, nhiều dân tộc hầu như không có nền triết học của riêng mình, hoặc chỉ tiếp thu nền triết học ngoại lai làm tư tưởng triết học của mình là chính, hoặc không có một nền triết học thật sự. Tuy nhiên, hầu hết các dân tộc đều có triết lý hoặc một số tư tưởng triết học, nhưng chưa phải là một nền triết học hoặc triết học theo đúng nghĩa của nó. Lại có hiện tượng có những vùng triết học luôn luôn nảy sinh và phát triển hết trường phái này đến trường phái khác; còn có những vùng lại chỉ xuất hiện ở những thời kỳ, còn sau đó ít thấy xuất hiện những trường phái triết học tiếp theo một cách rõ nét. Trường hợp trước, ta thấy ở phương Tây; còn trường hợp sau, ta thấy ở phương Đông. Và phải chăng mọi dân tộc đều cần đến triết học hoặc mọi dân tộc đều có khả năng xây dựng triết học của chính mình. Những hoàn cảnh lịch sử như thế nào thì đòi hỏi sự xuất hiện một triết học mới? Tri thức triết học như đối tượng một môn học, cũng như hình thái ý thức triết học nhìn một cách khái quát trong quá trình vận động lịch sử của nó từ xưa đến nay quả là rất đa dạng, phong phú, phức tạp nhiều diện mạo khác nhau, phương Đông khác phương Tây. Dù rằng triết học vẫn có những đặc trưng chung, bản chất tạo thành lịch sử tri thức của mình để phân biệt với các ngành tri thức và trí thức xã hội khác như ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức khoa học và ý thức đạo đức. Từ đó việc nhận thức những nguồn gốc cụ thể, những nguyên nhân cụ thể làm rõ các vấn đề nêu trên là không dễ dàng. Làm rõ các vấn đề đó mới hiểu được sâu sắc vai trò của triết học trong thực tiễn tạo điều kiện và tìm những biện pháp để thúc đẩy triết học phát triễn, xây dựng nền triết học của mình với tư cách là tích hợp những tư tưởng triết học của dân tộc mình với tư tưởng triết học từ bên ngoài mà mình tiếp thu và vận dụng. Đồng thời qua đó ta hiểu sâu sắc thêm sự vận động của lịch sử triết học, đánh giá thực trạng của nền triết học hiện tại và góp phần dự báo diện mạo, khuynh hướng của triết học trong tương lai trước hết là của dân tộc Việt Nam ta. Sự xuất hiện tri thức triết học là mang tính thế kỷ. Nghĩa là trong quá trình tiến hóa của xã hội, một triết học thường chỉ xuất hiện ở những bước ngoặt của lịch sử, hoặc thời kỳ có nhiều biến đổi mới trong khoa học, trong nhận thức, trong thực tiễn kinh tế xã hội. Chính vì vậy, tri thức triết học, các trường phái triết học ít nhiều có sức sống xuyên thế kỷ, thậm chí thiên niên kỷ. Trong khi đó phần nhiều các tri thức của các khoa học, hoặc các lĩnh vực nhận thức cụ thể thường xuất hiện thường xuyên hơn, thay thế nhau trong một thời gian ngắn, trong một vài thập kỷ hoặc một số năm nhất định. Bởi vì các tri thức cụ thể gắn liền với các thuộc tính và qui luật của sự vật, hiện tượng cụ thể luôn luôn biến đổi. Còn tri thức triết học gắn liền với những thuộc tínhcơ bản nhất, những qui luật phổ biến nhất trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Con người hoạt động thực tiễn cần trực tiếp các tri thức cụ thể nhưng xét đến cùng vẫn cần các tri thức triết học, đó là những trí thức làm cơ sở và đóng vai trò định hướng và thẩm thấu trong những hoạt động nhận thức và thực tiễn. Với ý nghĩa như vậy hầu như dân tộc nào cũng cần có triết học ít hoặc nhiều nhưng không phải dân tộc nào cũng có đầy đủ nhu cầu, năng lực và những điều kiện để phát triển riêng cho mình những trường phái triết học nhất định. Triết học xuất hiện xét đến cùng là do sự phát triển của đời sống xã hội quyết định, nhưng nó còn phụ thuộc vào truyền thống tư tưởng và văn hóa, năng lực trí tuệ và hoàn cảnh lịch sử của dân tộc đó qui định. Tùy theo những hoàn cảnh và tiến trình lịch sử nhất định mà mức độ ảnh hưởng đến các nhân tố khác là khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất là các tình huống lịch sử cơ bản và lâu dài của dân tộc đó đòi hỏi. Nghĩa là dân tộc đó trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định có cần tri thức triết học hay không và có đủ điều kiện xuất hiện một triết học hay không? Ta thấy rằng trong xã hội Ấn Độ cổ đại mang tính đẳng cấp với điều kiện sinh hoạt nghèo khổ và thiên nhiên khắc nghiệt đã làm nảy sinh ý thức tôn giáo và triết học mang tính tâm linh, mà ở đây là nổi bật triết học mang tính tôn giáo thấm đượm đạo đức nhân sinh phổ biến nhân loại. Các triết học ở Ấn Độ đi tìm nguồn gốc về sự sống chết, về nổi khổ của con người nhưng họ không thỏa mãn những nguyên nhân cụ thể trực quan mà đi tìm những nguyên nhân sâu xa, cơ bản gắn liền bản chất con người với bản thể vũ trụ nhưng chủ yếu họ vẫn suy tư sâu sắc vào bản ngã của con người. Đó là triết học mang tính hướng nội, đi sâu vào nhận thức trực giác, tâm lý và vạch ra con đường giải thoát con người khỏi đau khổ của cuộc đời, hướng tới tự do hạnh phúc, an bình thông qua việc tu luyện, phát huy sứ mạnh tâm linh. Còn ở Trung Quốc trong thời kỳ cổ và trung đại với hoàn cảnh chiến tranh và nội chiến giữa các quốc gia để đi đến thống nhất một nước Trung Hoa do nhu cầu thống nhất sự cai trị, đặc biệt là thời kỳ chủ nghĩa phong kiến đang lên đã làm nảy sinh nhiều trường phái triết học bản địa của Trung Quốc mà nổi bật nhất là triết học của phái Lão Trang và Nho gia. Triết học Lão Trang gần hơn với triết học hương nội gắn với tự nhiên kiểu Ấn Độ, còn triết học Nho gia thì hướng ngoại, nhập thế nhằm giải quyết mối quan hệ giữa người và người, giữa vua với dân, giữa quân tử và tiểu nhân, giữa bố mẹ và con cái mang thực chất phục tùng một chiều, mặc dù trong triết học đó triết lý về chữ "nhân" rất sâu sắc và có giá trị nhân đạo. Trong khi đó triết học ở phương Tây từ xưa chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa con người với tự nhiên là chính. Tình hưống xuất hiện triết học loại đó là do nhu cầu hướng ngoại con người tập trung vào tìm hiểu và cải tạo thiên nhiên. Ở phương Tây nơi xuất hiện nhiều ngành khoa học và kỷ thuật ấy cùng với mô thức triết học hướng ngoại nói trên đã tạo ra sự phát triển nhanh chóng của sức sản xuất và biến đổi xã hội nhanh chóng, đặc biệt là thời kỳ xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Truyền thống của triết học phương Tây chủ yếu là triết học duy lý, đề cao vai trò trí tuệ của con người và quả thật cũng đã chứng minh được vai trò và sức mạnh to lớn của lý trí, của con người đối với sự phát triển, nhưng ngày nay lại đang rơi vào khủng hoảng. Và từ đó lại xuất hiện triết học mang tính chất phi duy lý đề cao bản năng, vô thức và trực giác để nhằm lấy lại cân bằng cho sự phát triển xã hội và con người. Trong khi đó ở phương Đông với việc đề cao triết học tâm linh, triết học đạo đức đã bảo tồn được bản chất nhân bản trong truyền thống văn hóa nhưng là một trong những nguyên nhân tạo ra sự trì trệ của xã hội. Triết học ấy cùng với hệ tư tưởng phong kiến mang tính hoài cổ nhằm, ổn định chế độ xã hội hiện thời đã không có được những nhận thức đột phá, hướng tới cải tạo tự nhiên và xã hội, hướng tới sự đổi mới và phát triển xã hội. Xã hội phương Đông nói chung đang cần bổ sung và phát triển các triết học và tri thức duy lý. Đó là cơ sở để phát huy vai trò trí tuệ của con người. Có như vậy, mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xã hội. Tất nhiên, từ một nước kém phát triển cổ truyền muốn tiến lên văn minh hiện đại để đi qua công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thi đó chính là tình huống xã hội cơ bản đòi hỏi sự bổ sung và phát triển triết học duy lý cũng như tri thức khoa học công nghệ nói chung. Song ngày nay các dân tộc phải được thức tỉnh và thấy được giới hạn tích cực và tiêu cực của hai dòng triết học phi lý và phi duy lý, do đó đang muốn có sự kết hợp, tích hợp giữa hai dòng triết học ấy. Và cũng có thể dự báo rằng trong thiên niên kỷ tới mà mở đầu bằng thế kỷ XXI sẽ xuất hiện những khuynh hướng triết học tổng hợp giữa phi lý và duy lý, giữa tính khoa học và tính nhân bản, giữa Đông và Tây. Điều đó là phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại vừa tăng cường được của cải vật chất, tiếp tục phát triển khoa học công nghệ, nhưng đồng thời lại đảm bảo được đời sống tinh thần, đạo đức và nhân cách của con người ngày càng phong phú tốt đẹp, một xã hội thật sự do con người vì con người, sống và hoạt động theo những nguyên tắc và lý tưởng nhân văn. Một xã hội được giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột và bất công và đồng thời sống hài hòa với tự nhiên, bảo vệ được môi trường, sinh thái. Đó là một xã hội khi đạt tới chủ nghĩa cộng sản thì tự do của mỗi người là điều kiện tự do của mọi người, kết hợp phát triển nhân cách con người cá nhân với nhân các cộng đồng xã hội như Các Mác đã dự đoán. Đó chính là tình huống của sự sinh thành và phát triển chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở phủ định và vượt qua xã hội tư bản và các xã hội trước đó nói chung. Chính triết học Mác đã đặt tiền đề cho một triết học hài hòa giữa duy lý và phi duy lý, giữa tính khoa học và tính nhân bản, nhân văn, một triết học đã và đang soi sáng cho thời đại mới, thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản được mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Tất nhiên, quá trình hình thành và phát triển chế độ xã hội mới cũng như là triết học của nó cũng dã trải qua những thăng trầm hưng thịnh thậm chí khủng hoảng. Nguyên nhân không chỉ nằm trong sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới mà còn do sai lầm của nhận thức và thái độ của con người, của chủ thể cách mạng. Cũng phải thừa nhận rằng có lúc có khi duy ly một cách không đúng hoặc tuyệt đối hóa duy lý tức là nhận thức khoa học về lý luận và thực tiễn cũng chưa đủ mức cần thiết hoặc rơi vào tình trạng lệch lạc cực đoan. Mặt khác kể cả trong triết học, trong tư tưởng cũng như trong hoạt động thực tiễn đã không chú ý thích đáng cũng cố và phát triển mặt nhân đạo, nhân bản, nhân văn. Chỉ nhấn mạnh mặt khoa học trong xã hội mà không nhấn mạnh mặt nhân đạo và nhân văn của nó. Do đó, trong thực tiễn mắc cả sai lầm duy ý chí, giáo điều và cả sai lầm về phản dân chủ, phản nhân đạo chứ không chỉ riêng một mặt nào. Chính vì vậy phát triển triết học nhân văn, triết học về con người của chủ nghĩa Mác gắn liền với triết học phát triển và triết học sinh thái. Tức là phải đưa triết học Mác lên trình độ mới về chất. Và nhìn chung các triết học ngoài mác xít trong thế kỷ tới cũng phải đi theo hướng đó dù rằng không phải khi nào cũng đạt tới sự đúng đắn khoa học, có ý nghĩa lâu dài. Bởi vì ngay trong thế kỷ XX này bên cạnh triết học duy lý, triết học khoa học đã xuất hiện triết học phi duy lý, triết học nhân văn, bên cạnh triết học về xã hội đã xuất hiện triết học về sinh thái. Tốc độ và nhịp độ phát triển xã hội ngày càng nhanh, qui mô càng rộng càng lớn thì càng cần những tri thức cơ bản và định hướng. Do đó, tri thức triết học ngày càng có vai trò lớn chứ không phải giảm đi. Tác dụng của triết học có thể âm thầm, thẩm thấu ảnh hưởng qua các tri thức khoa học khác để đến với hoạt động thực tiễn. Nhưng cũng có lúc thể hiện một cách trực tiếp hơn chẳng hạn có thời kỳ tư tưởng triết học hiện sinh đã dẫn đến phong trào hiện sinh, nổi loạn và phản kháng xã hội. Hoặc khi giai cấp công nhân thấm nhuần được triết học cách mạng của chủ nghĩa Mác đã dẫn đến phong trào cách mạng cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới ở một số quốc gia dân tộc. Hoặc trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay khi thay đổi thái độ mang tính triết học từ coi thường qui luật và tiến trình khách quan của sự phát triển sang tôn trọng nó đã tạo đã cho một sự phát riển nhảy vọt trong nền kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân. Tiến sang thiên niên kỷ mới, thế kỷ mới phải xây dựng một tầm nhìn mới, trước hết, phải là một tầm nhìn mang tính triết học. Khuynh hướng và diện mạo của triết học trong thiên niên kỷ, mới trong thế kỷ tới thật khó tên đoán cụ thể mà chỉ có thể đưa ra một nhận định đại thể như đã nói ở trên. Chỉ có thể nêu ra những câu hỏi để suy nghĩ: chẳng hạn như sau triết học phi duy lý (chủ nghĩa hiện sinh…) là triết học gì ? Hoặc triết học Mác sẽ phát triển như thế nào ? Hầu như tất cả còn nằm ở phía trước. Nước ta trong quá trình lịch sử lâu dài, trình độ kinh tế và dân trí còn thấp, chiến tranh xâm lược lại diễn ra liên miên, do đó trí tuệ của dân tộc tập trung giải quyết những vấn đề thực tiễn gay cấn và cấp bách, cho nên ít có điều kiện đi sâu vào học thuật, vào những lĩnh vực lý luận và triết học trừu tượng. Lý luận và triết lý ở đây mang tính chất thực hành cụ thể, tức là ít bàn sâu về bản thế luận, nhận thức luận, mà bàn nhiều về hành động luận (tâm và hình tướng, chủ nghĩa yêu nước, đạo lý làm người). Từ đó nhìn vào lịch sử tư tưởng của dân tộc có thể khẳng định rằng: một mặt là chúng ta ít có truyền thống tư duy triết học lý luận, ít có những trường phái triết học và những nhà triết học lớn thực thụ; mặt khác lại thấy rằng chúng ta đã biết tiếp thu những tư tưởng triết học bên ngoài ảnh hưởng và thẩm thấu vào đây, cộng sinh và bản địa hóa. Tổng hợp hai mặt đó lại đã tạo ra được hệ thống tư tưởng triết học Việt Nam trong lịch sử. Nhưng là một loại triết học mang tính chất triết học chính trị và triết học đạo đức. Nhưng không thể phủ nhận được rằng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, nói rộng ra là chủ nghĩa nhân văn Việt Nam đã tồn tại như một hệ thống tư tưởng triết học nhất quán và có thể coi đó là dòng triết học bản địa của Việt Nam. Trong thế kỷ XX với sự tiếp thu triết học Mác Lênin đồng thời tiếp thu có phê phán những thành tự triết học Đông Tây đã hình thành nên tư tưởng triết học độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như trong trí tuệ và tâm thức của chúng ta ngày nay. Chúng ta đang xây dựng một nền triết học trên cơ sở triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như tư tưởng của dân tộc nói chung. Để đưa đất nước phát triển lên giàu mạnh và văn minh, đi qua công nghiệp hóa hiện đại hóa, nền kinh tế thị trường, nền văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải xây dựng một tầm nhìn triết học và một nền triết học Việt Nam hiện đại. Có thể trọng tâm của việc xây dựng đó là tập trung vào việc phát triển triết học về con người và triết học về sự phát triển xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới của thời đại kết hợp được tính nhân bản và tính khoa học trong tư duy triết học của con người Việt Nam hiện đại, tránh được những sự thiên lệch cực đoan mà những dân tộc đi trước đã vấp phải. Ngày nay, chúng ta đã có tình huống cơ bản hơn, rõ ràng hơn để phát triển triết học nước nhà. Chúng ta đã có những điều kiện mới chưa từng có như môi trường dân chủ và giao lưu ngày càng rộng mở, trình độ dân trí ngay càng được mở rộng, nâng cao và đặc biệt có một đội ngũ trí thức tương đối mạnh mẽ có năng lực để phát triển tư duy và trí tuệ triết học. Tất nhiên, không phải mọi điều đã ngang tầm với đòi hỏi của thời cuộc. Do đó, nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết như tiếp tục xây dựng đội ngũ những nhà triết học trong nghiên cứu và giáo dục như thế nào ? Phương hướng xây dựng nền triết học Việt Nam ngày nay như thế nào ? Tập trung vào những lĩnh vực trong tâm nào mà thực tiễn đòi hỏi và ta có thế mạnh ? Có thể có những "phân phái" Việt Nam trong thế kỷ tới hay không ? Triết học Việt Nam có những diện mạo là gì và có những đóng góp gì vào nền triết học nhân loại ? Nước ta là nước có nền văn hóa lâu đời, trong lịch sử đã có những trí tuệ, nhân cách lớn như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Phan Bội Châu và đặc biệt là Hồ Chí Minh. Hiện nay, ở nước ta có một số nhà triết học đã ít nhiều có tầm cỡ thế giới, được thế giới biết đến. Thế kỷ XX đã tích lũy về lượng cho thế kỷ XXI có những nhảy vọt về chất không chỉ các mặt khác trong đời sống xã hội mà có lẽ có cả trong triết học. Dù nói một cách khiêm tốn rằng chúng ta tiếp thu và vận dụng triết học từ bên ngoài vào nước ta là chính thì cũng có quyền nói rằng, chúng ta có điều kiện để phát triển những tư tưởng triết học của riêng mình, tạo ra một dòng triết học mang tính dộc đáo Việt Nam trong sự kết hợp sứ mạnh ngoại sinh và nội sinh của triết học, tiếp bước tư duy triết học của dân tộc và đưa lên một trình độ mới, cao hơn dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tôi nghĩ rằng một trong những hướng cơ bản, đó là triết học nhân văn. 2- Một số vấn đề thế giới quan triết học về phát triển xã hội theo tư duy mới hiện nay Những thập kỷ cuối của phần nữa sau của thế kỷ XX, những phát triển về khoa học và kinh tế xã hội đã đặt ra nhiều vấn đề buộc con người thay đổi thế giới quan của mình ở mức độ này hoặc mức độ khác. Mà nếu không tạo lập thế giới quan mới thì không thể vượt qua được những khủng hoảng nghiêm trọng từ nhận thức đến đời sống xã hội đang đe dọa nền văn minh nhân loại, chẳng hạn nghèo đói, môi sinh bị tàn phá và bạo lực cộng đồng. Nhìn chung lại đó là sự khủng hoảng của sự phát triển trên cả phương diện nhận thức và thực tiễn. Những thành quả của khoa học vật lý hiện đại mang lại đã tạo ra một cách nhìn nhận mới về thế giới thực tại trong chiều sâu của nó, phủ định cách nhìn cơ giới máy móc về tồn tại và sự phát triển. Trên lĩnh vực này đã xuất hiện triết học Dung thông. Triết học này nhìn vũ trụ như một mạng lưới (theo tôi cả xã hội cũng như vậy), nhìn vũ trụ và xã hội theo quan điểm nhất thể, các thành phần bao hàm lẫn nhau, tương thích với nhau theo một tiến trình nhất định. Cách nhìn nhận đó thấm đượm thế giới quan sinh thái và tâm linh phù hợp với thế giới quan đạo học phương Đông (Xem Fritof Capra -Nguyễn Tường Bách dịch: Đạo của Vật lý, Nxb Trẻ, 1999, tr 119) . Tinh thần của triết lý Dung thông (mạng lưới) hay triết lý Đạo học như vậy, chúng ta lại thấy trong hình ảnh của triết học Mác về bản chất biện chứng của thế giới, về sự phát triển được khoa học ngày nay chứng minh và làm sáng tỏ ở chiều sâu. Nhưng đồng thời phải dựa trên cơ sở triết học phương Đông và khoa học hiện đại mà phát triền triết học Mác - Lênin. Nhiều nhà khoa học trên thế giới đi sâu nghiên cứu sự phát triển của xã hội, tìm hiểu những mâu thuẫn, những khủng hoảng và những bất lực trong quan niệm và thực tiễn. Quan niệm phát triển một cách duy lý chỉ nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế lấy tăng trưởng kinh tế làm trung tâm, nhấn mạnh tiền bạc và công nghệ, nhấn mạnh tiêu dùng vật chất là một trong những nguyên nhân dẫn đến sinh thái của trái đất suy thoái nghiêm trọng, sự giàu có của một số ít và sự nghèo đói của số đông, đạo đức suy thoái tệ nạn và bạo lực xã hội gia tăng. Lối phát triển thiên về số lượng, duy lý, thực dụng, cực đoan đã đưa loài ngưới đến hiểm họa toàn cầu. Những thập kỷ 70 của thế kỷ XX những vấn đề đó đã được đặt ra mmột cách gay gắt. Một số nhà khoa học đã cảnh báo về hiểm họa đó. Thập kỷ những năm 80 của thế kỷ XX loài người đã bắt đầu thức tỉnh. Và đến thập kỷ những năm 90 của thế kỷ này, nhìn chung nhiều quốc gia đã bắt đầu có sự thay đổi trong tư duy về sự phát triển. Sự thay đổi này cũng có tính chất thế giới quan. Đó là sự thay đổi quan niệm phát triển từ trước đến nay trong tất cả các quốc gia từ nước "phát triển" đến các nước kém "phát triển": từ phát triển lấy tăng trưởng kinh tế làm trọng tâm sang phát triển lấy con người làm trung tâm, nghĩa là từ phi phát triển sang phát triển theo đúng nghĩa của nó. Phá